- "Có thể nói, chính sách một quốc tịch thì nước nào cũng thích, nhưng xu hướng hội nhập quốc tế đòi hỏi không thể cứng nhắc", Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp (Bộ Tư pháp) Trần Thất trao đổi về dự án Luật Quốc tịch sửa đổi được trình QH ngày 24/5.
Chuyển từ một quốc tịch cứng sang một quốc tịch mềm
- Trong lĩnh vực quốc tịch hiện nay có hai vấn đề bức xúc. Thứ nhất, nguyên tắc một quốc tịch, thứ hai là tình trạng không quốc tịch của những người đã định cư lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam. Dự án Luật Quốc tịch sửa đổi đã tập trung giải quyết hai vấn đề này như thế nào? Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam trong nước, do đó, phải có những chính sách cụ thể đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Để giải quyết vấn đề này, dự thảo Luật sửa Điều 3 của luật hiện hành, chuyển từ một quốc tịch cứng sang một quốc tịch mềm.
Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp Trần Thất: "Khi đã công nhận một người vừa là công dân của anh, có quốc tịch nước anh, vừa có quốc tịch của nước khác, thì việc giải quyết xung đột quốc tịch ở đây phải bằng sự đàm phán giữa hai nước". Ảnh: VA
Có thể nói, chính sách một quốc tịch thì nước nào cũng thích, nhưng xu hướng hội nhập quốc tế khiến cho chính sách một quốc tịch không thể cứng nhắc được. Nếu anh cứng nhắc thì một mình anh sẽ đứng một sân. Do đó, việc sửa Điều 3 là tất yếu và điều đó cũng đáp ứng được nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Thứ hai, sửa đổi Luật Quốc tịch là nhằm giải quyết tình trạng không quốc tịch của những người định cư lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
"Dự án Luật Quốc tịch (sửa đổi) lần này cũng như Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 chỉ có mục đích quy định các vấn đề về quốc tịch Việt Nam (có quốc tịch Việt Nam, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam, quản lý nhà nước về quốc tịch v.v...) để trên cơ sở đó xác định ai là người có quốc tịch Việt Nam". |
Nước ta hiện có trên 84 triệu dân, xưa nay nhiều người cứ nghĩ chuyện quốc tịch nằm ở đâu đó, ở quốc tế, mà không nghĩ rằng ngay trên lãnh thổ nước ta, do trải qua nhiều năm chiến tranh nên để lại hậu quả là rất nhiều người không rõ quốc tịch nước nào.
Bộ Tư pháp và các bộ, ngành khác rất nỗ lực nhưng vẫn không giải quyết được, vì nếu theo Luật Quốc tịch 1998 thì phải qua thủ tục nhập quốc tịch, mà thủ tục này cần rất nhiều điều kiện, trong đó có điều kiện giấy tờ chứng minh quốc tịch, nhưng họ lại không thể có, kể cả tên, họ cũng chỉ gọi để biết vậy thôi chứ không có gì chứng minh, không có hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, không có ai xác nhận rằng tên của anh là như thế này, họ là như thế này…
Số người này hiện nay có thể là mấy vạn, nhưng nếu không khẩn trương giải quyết có thể lên tới con số hàng triệu.
- Một số ý kiến cho rằng việc chuyển từ nguyên tắc một quốc tịch “cứng” sang một quốc tịch “mềm dẻo” sẽ làm tăng số lượng người có hai quốc tịch, đặc biệt là những người Việt Nam định cư ở nước ngoài?
Vấn đề xung đột quốc tịch đã từng tồn tại từ lâu trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu là một trong những nguyên tắc được nhiều quốc gia thừa nhận. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này chỉ thể hiện thông qua việc đàm phán và ký kết các hiệp định giải quyết xung đột về quốc tịch chứ không phải là bằng quy định trực tiếp trong nội luật của các quốc gia.
Bởi vì, nguyên tắc quan trọng trong quan hệ quốc tế là các quốc gia bình đẳng với nhau. Không thể đem pháp luật của nước này đặt lên trên pháp luật của nước khác.
Nếu Luật Quốc tịch của ta quy định những nguyên tắc giải quyết xung đột về quốc tịch thì cũng không thể đem các nguyên tắc đó áp dụng trực tiếp trong giải quyết xung đột về quốc tịch với các nước khác. Nói cách khác, cho đến nay việc giải quyết các xung đột về quốc tịch giữa các quốc gia trên thế giới chủ yếu được thực hiện thông qua ký kết các hiệp định song phương và đa phương chứ không phải bằng cách quy định trong nội luật của các quốc gia.
"Nguyên tắc một quốc tịch cứng theo Luật năm 1998 không còn phù hợp với tình hình mới, đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ mới, chính sách mới của Đảng và Nhà nước ta".
Qua tham khảo luật quốc tịch của nhiều nước, kể cả những nước công nhận đa quốc tịch đều không có nước nào quy định nguyên tắc giải quyết xung đột về quốc tịch.
Một khi anh đã công nhận một người vừa là công dân của anh, có quốc tịch nước anh, vừa có quốc tịch của nước khác, thì việc giải quyết xung đột quốc tịch ở đây phải bằng sự đàm phán giữa hai nước, chứ không thể chỉ bằng pháp luật Việt Nam. Nếu anh áp đặt pháp luật của nước anh lên pháp luật của nước khác là vi phạm luật pháp quốc tế.
Xác nhận quốc tịch gốc là quốc tịch VN không khó
- Một vấn đề được nhiều người quan tâm là quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, liệu có bình đẳng, ngang bằng với công dân Việt Nam định cư trong nước không?
Theo Hiến pháp và nhiều đạo luật khác, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này phụ thuộc vào các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi công dân, không thể ngang bằng nhau.
"Dự thảo Luật mở ra quy định cho những người đã sinh sống ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 15 năm trở lên cho đến trước khi luật này có hiệu lực, được có quốc tịch Việt Nam bằng con đường đăng ký. Đấy cũng là một biện pháp giải quyết vấn đề bức xúc trong lĩnh vực quốc tịch hiện nay".
Đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài thì tại Điều 6 Luật Quốc tịch năm 1998 cũng như Điều 6 Dự án Luật Quốc tịch sửa đổi có quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chính sách để công dân Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện hưởng các quyền công dân và làm các nghĩa vụ công dân của mình phù hợp với hoàn cảnh sống xa đất nước”.
Như vậy, cần phải hiểu rằng các quyền và nghĩa vụ về mọi mặt của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài trong quan hệ với nhà nước ta là không hoàn toàn ngang bằng với công dân Việt Nam định cư ở trong nước.
Việc được hưởng các quyền và làm các nghĩa vụ của những công dân này trong từng lĩnh vực cụ thể và từng giai đoạn cụ thể sẽ được quy định bằng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực cụ thể của Nhà nước ta mà không nên và không thể quy định trong Luật Quốc tịch.
Từ những quyền và trách nhiệm liên quan đến đất đai, nhà cửa, đầu tư đến bầu cử, ứng cử… đều được quy định cụ thể trong các luật chuyên ngành như Luật Nhà ở, Luật Đầu tư... Luật Quốc tịch không thể quy định quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam định cư ở ngoài nước, vì như vậy là không khả thi và sẽ “lấn sân” của các luật khác.
- Dự thảo Luật cũng quy định về việc đăng ký quốc tịch Việt Nam đối với người không có quốc tịch và người không rõ quốc tịch nước nước nào đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Theo ông, quy định này có khả thi không, có bất cập gì đối với người Việt Nam sống ở nước ngoài nhưng cư trú tại vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo không?
Theo tôi, điều này không khó khăn gì vì trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, việc đăng ký để xác nhận mình muốn giữ quốc tịch gốc là quốc tịch Việt Nam đối với công dân VN cư trú tại các nước là vấn đề không khó khăn.
Người dân có thể gửi xác nhận của mình qua đường bưu điện, đăng ký qua mạng Internet với cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài…
Mặt khác, dự thảo Luật cũng quy định thời hạn mang tính chất chuyển tiếp, được thực hiện trong vòng 5 năm để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân đều biết và có đủ thời gian thực hiện quy định này.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Ngoại giao, có khoảng 3 triệu người Việt Nam định cư tại các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới: Mỹ: 1.300.000, Pháp: 300.000, Úc: 250.000, Canada: 200.000, Campuchia: 200.000... Hơn 60.000 trong số này đã được thôi quốc tịch Việt Nam, hơn 2.300 người đã được xác nhận có quốc tịch Việt Nam để được cấp hộ chiếu hoặc giấy tờ tuỳ thân. |
-
Vân Anh