Phản ánh tới VietNamNet, Công ty HNC, địa chỉ tại KCN Thụy Vân, TP. Việt Trì (Phú Thọ), cho rằng TKV đã áp đặt giá cước vận chuyển và “gửi giá than” vào giá cước vận chuyển khiến HNC thiệt hại mỗi năm hàng chục tỷ đồng.
Trong khi đó, giá than đã được Chính phủ phê duyệt giá ưu đãi đối với những nhóm ngành sử dụng số lượng lớn than làm nguyên-nhiên liệu trong sản xuất.
HNC đưa ra bằng chứng: Theo thông báo số 6907/TKV – KH + TTN do Tổng giám đốc TKV Trần Xuân Hòa ký ngày
Căn cứ theo giá cước thị trường tại thời điểm hiện hành (tháng 12/2009), giá cước vận chuyển đường thủy từ Quảng Ninh về cảng Việt Trì là 50.000 đồng/tấn; 20.000 đồng phí vận chuyển đường bộ và bốc xúc từ cảng nội địa Việt Trì về đến nhà máy (đã bao gồm thuế VAT); 58.500 đồng thuế VAT (tính theo VAT năm 2009 là 5%). Tổng cộng, giá một tấn than về tới tận kho của HNC là 1.298.500 đồng. Thế nhưng, TKV đã yêu cầu HNC ký với giá 1.400.000 đồng/tấn.
Như vậy, mỗi tấn than bị chênh lệch 101.500 đồng so với giá thực tính.
“Tính cả năm, với lượng tiêu thụ hơn 100.000 tấn/năm, chúng tôi bị mất hơn chục tỷ đồng theo kiểu này.
HNC khẳng định, trước đây, với cơ chế trợ giá bán than cho một số ngành (bao gồm một số nhóm ngành sản xuất trọng yếu: điện, đạm, giấy, xi măng) của Chính phủ, TKV đã đề ra phương thức giao than đến tận nơi tiêu thụ (cuối nguồn) để cùng với các đơn vị vận tải trong và ngoài TKV “gửi giá” và nâng giá cước vận tải cao hơn thực tế.
Nội dung vụ việc TKV đội giá cước khiến HNC bị thiệt hại hàng chục tỷ đồng mỗi năm. - Ảnh: K.T
“Vì được hưởng mức giá trợ giá ưu đãi trong nhiều năm qua, tất cả các khách hàng của TKV (trong đó có HNC) chỉ biết ký kết hợp đồng với TKV mà không được thương thảo, không được biết giá than gốc là bao nhiêu, giá cước vận tải là bao nhiêu...” - một vị lãnh đạo của HNC khẳng định.
Do lo ngại nếu không có nguyên liệu để vận hành, mỗi ngày đóng cửa lò thiệt hại hàng tỷ đồng nên tất cả các hộ sử dụng than của TKV độc quyền cung cấp đều phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”!.
Để minh chứng cho việc TKV mập mờ và đơn phương áp giá cước vận chuyển nhằm đẩy giá thành cao hơn so với giá thị trường và giá ưu đãi đã được chính phủ phê duyệt, HNC đã cung cấp các hóa đơn thanh toán các hợp đồng vận chuyển giữa HNC và đối tác.
Cụ thể, trong HĐKT số 09 (năm 2009) giữa HNC và Cty TNHH TM và VT Trường Thành về việc vận chuyển hàng hóa từ cảng Việt Trì đi Hòn Gai – Hải Phòng bằng đường thủy, giá cước được tính theo thỏa thuận tại từng thời điểm cụ thể.
Hóa đơn thanh toán số 0024933 về việc Trường Thành vận chuyển đá từ cảng Hải Phòng đến cảng Việt Trì, đơn giá được tính theo tấn là 40.000đ/tấn; phí bốc xếp hàng lên tàu là 2.000đ/tấn, trong đó đã bao gồm thuế VAT.
Tương tự, các hợp đồng kinh tế vận chuyển hàng hóa của HNC đối với Cty TM và VT Phùng Hưng (Minh Tân,
“Chúng tôi cứ tính “xông xênh” cho chi phí cước vận tải từ Quảng Ninh về cảng Việt Trì của TKV, cùng lắm mới chỉ khoảng trên dưới 70.000đồng/tấn. Việc áp đặt giá cước của TKV rõ ràng cao hơn nhiều so với giá thị trường. Trong khi đó, vận chuyển than không có những yêu cầu về việc phải phủ bạt, che đậy như các mặt hàng klinke mà chúng tôi yêu cầu bên vận chuyển phải thực hiện!” – HNC cho biết.
-
Kiên Trung