Dù DeSalvo đã khai và miêu tả khá chính xác những vụ án mạng xảy ra, vẫn còn nhiều người tin rằng hắn là người tốt.
-
Tin bài mới:
Những bằng chứng nghi ngờ
Albert DeSalvo (crimeandinvestigation)
Dù DeSalvo đã khai và miêu tả khá chính xác những vụ án mạng xảy ra, vẫn còn nhiều người tin rằng hắn là người tốt. Vợ và gia đình hắn, luật sư, bác sĩ tâm lý của nhà tù, kể cả những cảnh sát từng làm việc với DeSalvo, đều khẳng định hắn chỉ có thể là một tên ăn cắp vặt mà thôi.
Thậm chí, Susan Kelly, nhà báo quan tâm đến vụ này, còn lên tiếng bênh vực DeSalvo, cho rằng hắn hoàn toàn vô tội. Một trong những lý do Kelly đưa ra là “không hề có một chứng cứ thực tế nào chứng tỏ DeSalvo dính líu vào các vụ giết người. Không nhân chứng nào xác nhận được DeSalvo đã có mặt tại nơi xảy ra các vụ giết người, mặc dù anh ta có một khuôn mặt dễ nhớ, đặc biệt là chiếc mũi to".
Người đầu tiên tỏ ra nghi ngờ kết luận của cảnh sát là Kenneth Rowe, sinh viên ngành kỹ thuật sống ngay phía trên căn hộ của Joann Graff. Anh đã nói chuyện với một người lạ mặt ngay trước khi xảy ra vụ giết người. Khi được đưa tới nhận diện, anh cho biết DeSalvo không phải là người đã tìm Joann. Jules Vens, người điều hành quán rượu Martin gần nhà Joann Graff tại Lawrence, thì cho biết sau vụ án mạng, có một người đàn ông giống như miêu tả của Rowe tới quán của ông. Hắn tỏ vẻ lo sợ và bị kích động như thể đang bị ai đó truy đuổi. Nhưng người đó không phải là DeSalvo. Một nhân chứng khác là Eileen O’Neil không xác định được DeSalvo có phải là người mà cô nhìn thấy qua cửa sổ phòng tắm trước khi vụ sát nhân xảy ra hay không.
Ngoài ra, Kelly còn chỉ ra rằng “có tàn của 3 điếu thuốc lá hiệu Salem trong phòng Mary Sullivan. Không ai trong căn hộ hút loại thuốc lá này. Một điếu thuốc Salem khác cũng được tìm thấy trong bồn cầu của căn hộ 4-C tại 315 đại lộ Huntington nơi Sophie Clark bị giết. Trong khi đó thì Albert DeSavlo không hề hút thuốc”.
Quan trọng hơn cả là nhân chứng Marcella Lulka, người sống cùng khu nhà với Sophie Clark. Cô đã gặp một người tự xưng là “ông Thompson”, muốn vào phòng cô để sơn nhà. Người đàn ông đó cao khoảng 1,8 m, có mái tóc màu mật ong chải về phía sau, khuôn mặt hình trái xoan. Cô không xác định được chính xác màu da của anh ta, nhưng đoán rằng anh ta vào khoảng 25 tuổi. Cuộc gặp này chỉ diễn ra vài phút trước khi Sophie Clark bị giết. Lulka sau đó đã giúp cảnh sát phác họa chân dung của “Thompson”. Đó là một người đàn ông có dáng vẻ bề ngoài tinh tế, khuôn mặt dài hẹp, mũi mỏng, cằm nhọn và một đôi mắt lớn hình quả hạnh. Tất cả đều không hề giống Albert DeSalvo.
Khi DeSalvo bắt đầu thú nhận về các vụ giết người, Bottomly cho triệu tập Marcella Lulka và Gertrude Gruen để họ có thể bí mật nhìn mặt hắn trong tù. Gruen là người phụ nữ duy nhất sống sót trong lần gặp mặt sát thủ bóp cổ. Cô chống cự lại và buộc hắn phải bỏ chạy. Còn Lulka, từ nhiều ngày trước đó đã được xem ảnh của những kẻ tình nghi.
Cả hai đều không thể khẳng định được DeSalvo có phải là kẻ họ gặp hay không.
Trong cuộc gặp, hai người còn được nhìn mặt tên tù bị kết án giết người George Nassar. Bắt gặp ánh mắt đầy hận thù của Nassar, Gruen đột ngột nhận ra nét giống với dáng điệu của kẻ đã tấn công cô. Còn Lulka thì giật mình khi nhìn thấy Nassar. Hắn chỉ khác kẻ cô đã nhìn thấy vào buổi chiều hôm đó ở mái tóc màu đen (chứ không phải màu mật ong như cô đã miêu tả với cảnh sát).
Một vấn đề mà ban điều tra phải giải quyết là mức độ chính xác trong lời thú tội của DeSalvo. Và khó hiểu nhất là, nếu Albert DeSalvo vô can thì với trí tuệ dưới mức trung bình, anh ta làm sao nhớ được đến từng chi tiết vụn vặt của các vụ giết người như vậy?
Lập luận đẩy vụ án vào ngõ cụt
Trong quá trình kiểm tra, bác sĩ Robey cho biết trí nhớ của DeSalvo hoạt động hiệu quả 100%. Ông kể lại: “Chúng tôi để 8 người lạ mặt đứng theo thứ tự trong phòng. Yêu cầu DeSalvo đi qua hàng người. Hôm sau, vẫn là những người đó nhưng với trang phục khác và vị trí đảo lộn hoàn toàn. Chúng tôi đề nghị DeSalvo xếp lại hàng người như hôm trước, và kết quả là 10 điểm!”.
Theo Robey, có thể DeSalvo đã biết được thông tin chi tiết về các vụ án qua nhiều nguồn:
- Có rất nhiều bài báo nói cụ thể, chi tiết về các vụ án, đăng ảnh của nạn nhân, kể lể về quần áo, thói quen của họ và cách bày biện căn phòng khi vụ án xảy ra. DeSalvo nhớ từng bài báo nói gì, số liệu của từng bài báo và thậm chí còn chỉ ra những chỗ chưa chuẩn xác trong các số liệu ấy.
- Những tin tức bị rò rỉ ra ngoài từ ban điều tra vụ sát thủ bóp cổ và đơn vị thực hiện khám nghiệm hiện trường của hạt Suffolk. Những người này nắm trong tay rất nhiều tài liệu hội thảo về các vụ án và “thoải mái” phân phát thông tin ấy cho báo giới và những người quan tâm.
- Việc điều tra các vụ án theo lời thú tội của DeSalvo khiến cho anh ta có nhiều cơ hội đến thăm những nơi xảy ra vụ án. Nhờ thế, anh ta biết chính xác cách bố trí đồ đạc của mỗi căn phòng.
- Những người mong muốn sớm kết thúc vụ án, như John Bottomly (lãnh đạo ban điều tra), đã cố tình hoặc vô ý cung cấp thông tin về các vụ giết người cho DeSalvo, và điều này lý giải vì sao sau này, khi phát biểu trước báo giới, lời khai của DeSalvo đầy các thuật ngữ chuyên môn và có bố cục rất rõ ràng rành mạch.
- Nguồn thông tin có từ những kẻ bị tình nghi khác, như George Nassar.
Cuối cùng, các chuyên gia tham gia cuộc điều tra thống nhất đưa ra kết luận rằng những vụ giết người không thể chỉ do một hung thủ gây ra. Theo một nghĩa nào đó, những dấu vết để lại hiện trường là không đồng nhất, và nạn nhân của vụ án thuộc những nhóm khác nhau.
Nhà báo Kelly tóm tắt một số sự khác biệt rõ ràng:
Không có gì giống nhau giữa vụ án giết Patricia Bissette - tương đối chuyên nghiệp, và vụ giết Mary Sullivan - đầy tính bạo lực, trong đó kẻ giết người còn thể hiện sự mỉa mai và khinh mạn của mình bằng cách đặt một tấm card chúc mừng trước mặt nạn nhân. Hay Beverly Samans bị đâm đến chết nhưng không hề bị hãm hiếp, trong khi đó Joann Graff lại bị hãm hiếp và bóp cổ.
Những tên giết người chuyên nghiệp thường có thói quen chỉ tập trung vào một mẫu nạn nhân nào đó. Ví dụ như tên Jack đồ tể chỉ giết gái điếm, hay Ted Bundy chỉ chọn các cô gái xinh đẹp có mái tóc dài, Jeff Dahmer ưa giết những cậu thiếu niên... Các nạn nhân của sát thủ bóp cổ thuộc về nhiều dạng và có những đặc tính hoàn toàn khác nhau. Như vậy, có thể giải thích là chỉ vài trong số 13 vụ án là do một kẻ gây ra.
Còn về Mary Mullen, người phụ nữ lớn tuổi chết vì bệnh tim? Kelly cho rằng đó là vụ án duy nhất mà DeSalvo đã gây ra. Hoàn toàn có khả năng là hắn đã đột nhập nhà bà để ăn cắp và làm cho bà chết vì sợ hãi.
Vụ án Mary Brown tạo ra nhiều câu hỏi làm đau đầu các quan chức cảnh sát. Cô bị hãm hiếp, bóp cổ và bị đánh đến chết tại Lawrence vào đầu tháng 3/1963. Lời thú nhận của DeSalvo về vụ án này chỉ chung chung và rất nhiều chi tiết không chính xác. Có thể hắn đã được George Nassar kể cho nghe vụ này khi còn ở trong tù với nhau, bởi Mary Brown sống ở cùng khu phố với người đàn ông bị Nassar bắn chết.
Phiên toà xét xử
Bailey, luật sư của DeSalvo, nói với Chưởng lý Brooke và Bottomly - người đứng đầu ban điều tra: “Khi tôi gặp DeSalvo thì đã có quá nhiều bằng chứng buộc tội, khiến anh ta không thể nào nộp tiền thế thân để ra tù. Giờ đây, theo yêu cầu của thân chủ, tôi phải chứng minh rằng anh ta đã gây ra tất cả các vụ giết người đó. Tôi hiểu DeSalvo sẽ không bao giờ ra khỏi tù, nhưng hãy làm sao để anh ta không bị xử tử. Tôi biết rõ, cả hai ông đều không muốn anh ta bị giết”.
Brooke không hề nghĩ đó là một đòi hỏi quá đáng, nhưng ông muốn suy nghĩ thêm. Lúc đó, ông đang tranh cử thượng nghị sĩ, và sẽ rất dở nếu để vụ xử DeSalvo xảy ra vào thời điểm tranh cử. Ít nhất thì Bailey cũng có thể có được phán quyết của tòa, rằng DeSalvo đang trong tình trạng thần kinh không ổn định và không thể bị xét xử.
Cuối cùng, ngày 10/1/1967, Albert DeSalvo bị đưa ra xét xử với tội danh gây ra vụ "người đàn ông mặc đồ xanh". Bailey giải thích: “Lý do mà tôi định đưa ra để thuyết phục quan tòa rằng Albert bị thần kinh, không thể xét xử được, rất đơn giản. Thông qua 13 vụ án mà anh ta thú nhận là đã gây ra, tôi hoàn toàn có thể chứng minh anh ta điên tới mức nào. Tôi sẽ kết hợp cả lời thú tội của anh ta và lời chứng của cảnh sát... Tất nhiên là vấn đề không hề bình thường: Ai lại bảo vệ một người phạm tội ăn cướp và tấn công bằng cách chứng minh rằng anh ta gây ra tới 13 vụ giết người?”.
Phiên tòa do thẩm phán Cornelius Moynihan điều hành, xem xét lời buộc tội của phía công tố, do ông Donald L. Conn đứng đầu. Conn đã mời 4 nạn nhân của vụ "người đàn ông mặc đồ xanh" tới. 4 người này cùng kể lại những câu chuyện tương tự nhau. Theo đó, DeSalvo đã tìm cách đột nhập, hoặc nói chuyện để thuyết phục các nạn nhân cho anh ta vào nhà. Sau đó, anh ta trói nạn nhân, lột quần áo và vuốt ve họ, nhưng không bao giờ hãm hiếp. Trong lúc phạm tội, anh ta còn sử dụng con dao hay khẩu súng đồ chơi trẻ con để đe dọa họ. Sau đó anh ta lấy đi những đồ trang sức quý giá của các nạn nhân.
Luật sư Bailey không kiểm tra lại lời khai của các nhân chứng vì ông thấy rõ rằng mình sẽ không được gì khi làm như vậy.
Trong lời tuyên bố mở đầu phiên tòa, Bailey cho biết ông không hề nghi ngờ việc DeSalvo là thủ phạm của các vụ án, và vấn đề duy nhất còn lại là “phải xác định xem anh ta có bị thần kinh hay không”. Ông đưa ra trước tòa nhân chứng của mình, bao gồm những chuyên gia có khả năng chứng tỏ sự không bình thường của Albert DeSalvo.
Conn phản bác, chỉ ra rằng việc thủ phạm tìm cách mở khóa các căn hộ và lừa dối dể chủ nhà cho phép vào nhà chứng tỏ anh ta không hề bị điên. Những người làm chứng của phía công tố cũng đồng ý với quan điểm đó, và khẳng định chỉ khi DeSalvo hãm hiếp nạn nhân thì đó mới là kết quả của một đầu óc không bình thường.
Trong nhiều giờ, bồi thẩm đoàn suy nghĩ về vấn đề đó. Họ cho rằng DeSalvo có tội và kết án anh ta tù chung thân.
Kết quả đó làm luật sư Bailey tức giận. Ông nói: “Mục tiêu của tôi là sát thủ bóp cổ được gửi tới một bệnh viện nào đó để các bác sĩ nghiên cứu xem tại sao anh ta lại giết người. Rất cần có một nghiên cứu như vậy để ngăn chặn những vụ án giết người hàng loạt có thể xảy ra bất kỳ lúc nào”.
Cái chết của phạm nhân
Mọi chuyện đã khép lại hoàn toàn nếu như không xảy ra cái chết của Albert DeSalvo. Tháng 11/1973, Albert DeSalvo bị đâm chết trong thời gian thi hành án tại nhà tù Walpole. Đêm trước hôm bị giết, phạm nhân cố gắng liên hệ với Tiến sĩ Ames Robey và yêu cầu ông gặp mình ngay lập tức. Anh ta tỏ ra rất sợ hãi. Robey hứa sẽ gặp DeSalvo vào sáng hôm sau, nhưng đã quá muộn. Đêm hôm đó, anh ta bị giết hại.
Robey kể lại: “DeSalvo muốn gặp tôi cùng một phóng viên báo chí. Anh ta nói sẽ kể hết cho tôi nghe sát thủ bóp cổ ở Boston là ai và tất cả những gì liên quan. Trước đó một tuần, anh ta còn yêu cầu cho mình vào xà lim an toàn dưới sự bảo vệ đặc biệt. Điều gì đó đã xảy ra trong nhà tù. Tôi cho rằng anh ta muốn tiết lộ ngay tất cả, trước khi quá muộn. Nhà tù có đầy đủ những người canh ngục, nhưng không ai thích anh ta... Đêm hôm xảy ra án mạng, cửa tất cả các phòng giam đều mở. Trong khoảng giữa hai lần điểm danh phạm nhân vào tối hôm trước và sáng hôm sau, kẻ nào đó đã đâm dao xuyên tim DeSalvo”.
Các quan chức tin rằng cái chết này liên quan tới hoạt động mua bán ma túy trong tù của DeSalvo. Có 3 phạm nhân bị đưa ra xử về vụ này, nhưng phiên tòa bị hoãn hai lần.
Điều khó hiểu trong vụ án Albert DeSalvo là bài thơ hắn viết vài năm trước khi bị giết, trong đó có câu “Người ta vẫn nghi ngờ, sát thủ bóp cổ đang nằm trong tù hay lang thang đâu đó ngoài kia?”. Đúng như bài thơ mà DeSalvo đã viết nên, "sự thật về cái chết của các nạn nhân không bao giờ được biết". Và vụ án "sát thủ bóp cổ thành Boston" không có hồi kết, để đến nay, người ta vẫn tự hỏi: Phải chăng DeSalvo là thủ phạm? Hay Nassar? Cũng có thể, tên sát nhân chẳng phải là ai trong hai kẻ đó, mà là một người bí mật, đến giờ "vẫn đâu đó ngoài kia".
-
Chúc Anh (Theo Crime)