- Những năm cuối đời, Lênin đặt ra nhiều vấn đề cần phải canh tân: thanh Đảng, thay đổi đường lối kinh tế (đề ra chính sách kinh tế mới - NEP) và cải cách bộ máy nhà nước. Tất cả những vấn đề đó vẫn đang còn nhiều giá trị gợi ý cho Việt Nam hôm nay.
Về tính cấp bách phải cải cách bộ máy Nhà nước, Lênin nói: "Không có sự tận tụy nào, không có uy tín nào của Đảng có thể thay thế được điều cơ bản trong trường hợp này, đó là: Sự hiểu biết công việc, hiểu biết bộ máy Nhà nước của chúng ta và hiểu biết bộ máy đó phải được cải tổ như thế nào".
"Vấn đề văn hoá" của bộ máy nhà nước
Một năm trước khi qua đời, tháng 3/1923, Lenin đã chỉ ra "vấn đề văn hóa" của bộ máy nhà nước, bộ máy ấy vừa yếu kém, vừa cồng kềnh quan liêu, vừa đầy rẫy nạn ăn hối lộ, nạn ăn cắp của công. Phải "cải tiến bộ máy nhà nước" bởi vì "Tình hình bộ máy nhà nước của ta rất đáng buồn, nếu không muốn nói là rất tồi tệ, đến nỗi chúng ta phải suy nghĩ nghiêm chỉnh xem nên khắc phục những khuyết điểm của bộ máy ấy như thế nào".
Về thái độ của đảng Cộng sản, theo ông, là phải "giác ngộ", là "Phải kịp thời tỉnh ngộ. Phải thấm sâu thái độ bất tín nhiệm bổ ích đối với lối cứ khinh suất muốn lao bừa lên đối với mọi lời huênh hoang v.v…
Phải nghĩ đến chuyện kiểm tra lại những chủ trương mà chúng ta tuyên bố hàng giờ, quyết định hàng phút, rồi từng giây chứng minh tính chất không vững chắc, không kiên định và khó hiểu của các chủ trương đó. Điều tai hại nhất ở đây là hấp tấp. Điều tai hại nhất là tưởng rằng chúng ta biết được một tí như thế là đủ rồi, hoặc tưởng rằng chúng ta đã có được một số yếu tố khá lớn để xây dựng được một bộ máy thật sự xứng đáng với danh hiệu bộ máy XHCN...".
Để cải tiến bộ máy nhà nước thì cần phải hiểu đúng thực chất của vấn đề.
"Về mặt này, không thể giải quyết được bằng một hành động liều lĩnh, hay một cuộc xung phong, bằng sự tàn bạo hay bằng nghị lực, hoặc nói chung, bằng bất cứ một trong những đức tính tốt đẹp nhất nào của con người".
Muốn cho bộ máy nhà nước có thể đạt được trình độ mong muốn thì phải tôn trọng quy tắc "chỉ hành động khi đã suy nghĩ chín chắn" thận trọng và "am hiểu cặn kẽ", phải đi những bước vững chắc "thà ít mà tốt" còn hơn là hấp tấp vội vàng.
Biện pháp nửa chừng rất tai hại
Đảng phải thành thật mà nhận biết rằng kiến thức của đảng viên, cán bộ, công chức và của nhân dân về xây dựng Nhà nước còn rất thấp. "Những yếu tố kiến thức, học thức, giáo dục" so với "tất cả các nước khác thì chúng ta còn ít ỏi đến nực cười".
Người nhắc nhở để cải tiến bộ máy nhà nước, Đảng phải tự đặt cho mình nhiệm vụ "một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức của nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa (điều này phải thú thật là thường hay xảy ra ở nước ta), phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống của chúng ta".
Để thực hiện quy tắc "Thà ít mà tốt", trước hết Đảng phải chấn chỉnh Bộ dân ủy thanh tra công nông (tựa như Tổng Thanh tra Chính phủ của ta hiện nay - NV), phải làm sao cho nó thực sự trong sạch vững mạnh, đủ khả năng làm công tác thanh tra. Đồng thời, phải củng cố Ban kiểm tra Trung ương Đảng. Phải chuẩn bị cặn kẽ và cần có những biện pháp dứt khoát, triệt để bởi vì "những biện pháp nửa chừng sẽ rất tai hại".
Đảng và Nhà nước cùng có một mục tiêu chung là dẫn dắt nhân dân mưu cầu hạnh phúc, cùng phải có một tư cách là "đầy tớ trung thành của nhân dân" và cùng có một đối tượng lãnh đạo và quản lý là nhân dân - dân tộc - quốc gia.
Tất nhiên, Đảng không phải là Nhà nước. Đảng là tổ chức chính trị, là "hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động" (Hồ Chí Minh), là một tổ chức tham mưu, một đội tiên phong của dân tộc. Còn nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là tổ chức duy nhất nắm trong tay cả ba nhánh quyền lực vốn là của nhân dân: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong một nước chỉ có chế độ một đảng, đảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền, việc phân biệt sự khác nhau giữa Đảng và nhà nước là có tính nguyên tắc. Mặt khác, do đặc điểm nói trên nên vấn đề kết hợp công tác giữa cơ quan Đảng và cơ quan nhà nước cũng lại là một nguyên tắc.
Song việc kết hợp ấy, trên thực tế cũng không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Lênin đã nêu ra một câu hỏi lớn, một bài toán chính trị không tìm thấy lời giải ở bất kỳ kiểu nhà nước nào trước kia: "Làm thế nào có thể kết hợp được một cơ quan Đảng với một cơ quan chính quyền Xô-viết?".
Tại sao không kết hợp?
Muốn trả lời câu hỏi đó, không có cách nào khác là phải tìm về thực tiễn, lấy thực tiễn để khẳng định chân lý. Ông đặt ra một loạt câu hỏi: "Thật vậy, tại sao lại không kết hợp hai loại cơ quan đó lại khi lợi ích của công việc đòi hỏi phải làm như thế? Phải chăng chưa bao giờ có ai nhận xét chẳng hạn rằng trong một Bộ dân ủy như Bộ dân ủy ngoại giao, việc kết hợp như thế thật vô cùng có ích và đã đạt được thực hiện ngay từ khi bộ đó mới được thành lập?
Phải chăng Bộ Chính trị đã không thảo luận, trên quan điểm của Đảng, nhiều vấn đề, lớn và nhỏ, về những "nước cờ" mà chúng ta dùng để chống lại những “nước cờ” của các nước ngoài, nhằm đề phòng, chẳng hạn - nói cho lễ độ - một mưu kế nào đó của họ? Phải chăng sự kết hợp linh hoạt của yếu tố chính quyền với yếu tố Đảng lại không phải là nguồn sức mạnh phi thường trong chính sách của chúng ta?".
Lênin cho rằng những gì đã được thực tiễn kiểm chứng là đúng trong chính sách ngoại giao đều có thể ứng dụng vào toàn thể bộ máy nhà nước. Ông còn nhấn mạnh, với những cơ quan như Bộ dân ủy thanh tra công nông và cơ quan kiểm tra của Đảng, có những nội dung quan trọng "đòi hỏi một sự linh hoạt vô cùng trong những hình thức hoạt động của nó nữa - tại sao đối với cơ quan ấy lại không thừa nhận là có thể hợp nhất một cách độc đáo bộ máy kiểm tra của Đảng với bộ máy kiểm tra của chính quyền?".
Lênin nhận định trong toàn bộ lĩnh vực những quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị, chúng ta đều tỏ ra là cách mạng "ghê gớm". Nhưng về mặt cấp bậc, về mặt tôn trọng những hình thức, những thể lệ và thủ tục hành chính thì "tính cách mạng" vẫn hay nhường chỗ cho tinh thần thủ cựu, hủ bại nhất. Người đã chỉ ra nghịch lý "trong đời sống xã hội, bước nhảy vọt phi thường nhất lại thường đi kèm theo một sự rụt rè ghê gớm trước những thay đổi nhỏ nhất".
Tình hình trên cũng không phải là khó hiểu bởi những bước táo bạo nhất, những vấn đề to lớn của cuộc cách mạng XHCN "vẫn nằm trong cái lĩnh vực từ rất lâu đã là lĩnh vực thuần túy lý luận" đã được "nuôi cấy chủ yếu - hoặc thậm chí hoàn toàn bằng lý luận".
Nền giáo dục xa rời đời sống thực tiễn, thiếu kết hợp lý luận với thực tiễn đã làm cho giáo dục lý luận mang "một tính chất phiến diện lạ thường". Lênin đã nghiêm khắc chỉ ra rằng ở nước Nga khi bước vào thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP), lý luận đã mang tính bảo thủ rụt rè trước những vấn đề "nhỏ nhặt", chi tiết nhưng rất thiết thực, rất cần cho đời sống thực tiễn. Người viết: "Ở nước ta, sự táo bạo trong công trình lý luận chung đã song song tồn tại với tính rụt rè lạ lùng trước một cuộc cải cách hành chính nhỏ nhặt nhất".
Cải cách bộ máy nhà nước, cải cách thể chế, thủ tục hành chính, tinh giản biên chế, thực hành một nền công vụ có hiệu năng bởi một đội ngũ công chức tinh thông nghề nghiệp, biết làm việc trên tinh thần phục vụ nhân dân đi liền với chống tệ quan liêu, ăn hối lộ và tham nhũng… là những vấn đề đã được Lênin nhấn mạnh nhiều lần.
Ông khẳng định: "Chỉ có làm cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột bực, chỉ giảm bớt đến mức tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết, chúng ta mới có thể đứng vững được".
-
(Các trích dẫn rút từ Lênin toàn tập,T45)