221
5082
Chuyên đề
chuyende
/vanhoa/chuyende/
827100
Không thể tuỳ tiện trong cách tính lịch
1
Article
443
Văn hoá
vanhoa
/vanhoa/
Không thể tuỳ tiện trong cách tính lịch
,

(VietNamNet) - "Ông Trịnh Tiến Điều nói các tiết khí có đổi tên cho phù hợp thời tiết, theo tôi, điều này không quan trọng. Quan trọng là phải hiểu các tiết khí cho đúng" - Nguyễn Phúc Giác Hải

> Lịch 2007: Các tiết Trung Hoa được Việt hoá như thế nào?

> Lịch bloc 2007: Tự do hay "Cá lớn nuốt cá bé"?

> In lịch không chuẩn phải cải chính và đổi lịch cho dân

Sau khi VietNamNet đăng tải tuyến bài về Lịch 2007, chúng tôi nhận được rất nhiều ý kiến bày tỏ quan điểm khác với cách giải thích của ông Trịnh Tiến Điều- Trưởng Ban lịch Nhà nước về lịch âm và các tiết lịch Trung Hoa được Việt hoá cho phù hợp với điều kiện khí hậu nước ta.

Xét thấy vấn đề ngày càng đi sâu vào chuyên ngành hẹp mà vẫn chưa giải quyết thoả đáng thắc mắc của người dân: Muốn xem ngày, giờ, năm, tháng gắn với tâm thức truyền thống trọng ngày lành tháng tốt thì theo lịch âm nào?; để rộng đường dư luận, chúng tôi xin được tiếp tục mạch bài Lịch 2007 với các ý kiến của những nhà lịch pháp nghiệp dư và của cả độc giả VietNamNet như một sự tham chiếu cần thiết. 

Soạn: AM 859457 gửi đến 996 để nhận ảnh này

Ông Nguyễn Phúc Giác Hải

Ông Nguyễn Phúc Giác Hải: Muốn tính giờ lành thì đo bóng cọc! 

Ông có ý kiến gì về việc lịch âm được ghi trên các loại lịch hiện đang lưu hành có sự khác nhau?

- Cách tính lịch âm tuân theo quy luật nhuận rất phức tạp. Một năm dương lịch đủ 365 ngày nhưng năm âm lịch chỉ có 354 hoặc 355 ngày. Như vậy, mỗi năm Âm lịch sẽ chậm so với Dương lịch 10 hoặc 11 ngày nên sau 3 năm nó sẽ được bù thêm một tháng nhuận để đuổi kịp dương lịch, theo được lịch thời tiết. Trung bình sau 19 năm dương lịch thì sẽ có 19 năm âm lịch cộng với 7 tháng nhuận. Nhưng vấn đề phức tạp nằm ở chỗ 7 tháng nhuận ấy được bố trí như thế nào? Đây là quy luật nhuận, nó rơi vào tháng nào đó theo tiết khí mà không có trung khí. Chính quy luật nhuận này cùng với quy ước pháp định múi giờ (Việt Nam múi giờ 7 còn Trung Quốc là múi giờ 8) đã tạo nên sự khác nhau giữa lịch âm của chúng ta với lịch âm Trung Quốc.  

Năm tới, chúng ta ăn tết trước Trung Quốc 1 ngày vì điểm giao thừa của ta nằm ở tháng thiếu còn điểm giao thừa của Trung Quốc nằm ở tháng đủ. Đến tháng giêng lịch của ta sẽ đủ mà lịch Trung Quốc là tháng thiếu vì thế đến tháng 2 thì lịch của ta và lịch của Trung Quốc lại trùng nhau. Đắp đổi, bù trừ giữa thừa và thiếu cứ thế diễn ra cho đến  năm 2010 thì không có gì thay đổi về lịch. Cách tính này đã được thông qua và tôi xin nhắc lại, chúng ta mới chỉ  có lịch cho đến năm 2010.  

Ông Trịnh Tiến Điều nói đã dùng phép tính để tính cho lịch âm tới 60 năm hay cả thế kỉ 21 này thì chưa có Hội đồng nhà nước thông qua. Hội đồng do những chuyên gia của Chính phủ quyết định. Còn Ban lịch là để trù bị, chứ không phải là nơi để thông qua. 

Câu hỏi chính mà người dân quan tâm là lịch âm còn cách giải thích của ông và ông Trịnh Tiến Điều- Trưởng ban lịch Nhà nước, lại là âm dương lịch với những quy luật bù trừ đắp đổi cho nhau theo thời tiết. Về thực chất, lịch âm đã phải thay đổi để đuổi theo lịch dương cho phù hợp với tiết khí vậy thì cái gốc của lịch âm ở đâu?  

- Lịch âm mà Việt Nam đang dùng đúng là cách gọi tắt của âm dương lịch. Âm lịch thuần tuý ngày xưa chỉ có 12 tháng, mỗi tháng chỉ có 29,5 ngày. Tính ra trong 1 năm lịch âm chỉ có 354-355 ngày. Lịch này sau đó thay đổi linh tinh và không đuổi kịp mặt trời nữa, tức là lịch âm thuần tuý đó không phải là lịch thời tiết. Chỉ có lịch dương mới là lịch thời tiết, nên trước đây người ta đặt ra lịch Chí tiết. Lịch Chí tiết chính là một thứ dương lịch. 24 tiết khí đó nếu ta xem trong lịch thế kỉ sẽ thấy những tiết khí này rơi vào những ngày dương lịch nhất định: Đông chí, Hạ chí, Xuân phân, Thu phân. Những ngày tiết khí đó là cái cốt cho dương lịch. Cái chúng ta gọi là âm lịch thì đấy là âm lịch đã có nhuận để đuổi kịp dương lịch và gọi là âm dương lịch. Âm dương lịch này phải lấy giờ chuẩn, ngày chuẩn theo phép tính múi giờ 7.  

Nếu vậy thì các quan niệm dân gian về ngày lành tháng tốt từ xưa tới nay đều lấy theo ngày âm của âm dương lịch? Nhưng dù là âm dương lịch đi nữa thì cách bấm giờ ở các địa điểm khác nhau cũng rất khác nhau, lấy gì làm chuẩn phổ thông cho giờ âm lịch? 

- Về phương diện chính thống chúng ta tính ngày, giờ phải dùng lịch theo ban lịch nhà nước. Trong dân gian đúng là còn cách tính tỉ mỉ các ngày phong thuỷ hay tính giờ sinh tháng đẻ để xem tốt xấu ra sao v.v.  Một ngày đêm khép kín có 12 giờ âm lịch: Tí , sửu, dần, mão, v.v. 1 giờ âm lịch ôm trọn 2 giờ dương lịch nên dung sai khá lớn so với múi giờ 7. Để hạn chế dung sai này người Trung Quốc chia giờ âm lịch thành 2 phần: Sơ khí và Chính khí. Ví dụ giờ Ngọ kéo dài từ 11h đến 13h được chia thành: Sơ Ngọ kéo dài từ 11h đến 12h, Chính Ngọ kéo dài từ 12h đến 13h. Thời điểm Chính Ngọ là thời điểm mặt trời rơi đúng đỉnh đầu. Chính khí phải là giờ địa phương, chính ngọ cũng phải là giờ địa phương. Để tính giờ cho việc cất nóc, động thổ, ma chay, cưới hỏi, mở cửa hàng, xuất hành, v.v. thì phải  đo bóng mặt trời nơi mình đang sống mà tính: Cắm cái cọc và quan sát thời điểm bóng cọc thu lại ngắn nhất để xác định thời điểm Chính Ngọ, từ đó chia ra thành các giờ: mùi, thân, dậu, tuất v.v..  

Việc đổi tên hay Việt hoá các tiết lịch Trung Hoa có gây nhầm lẫn gì không? 

- Ông Trịnh Tiến Điều nói các tiết khí có đổi tên cho phù hợp thời tiết, theo tôi, điều này không quan trọng. Quan trọng là phải hiểu các tiết khí cho đúng. Tên các tiết khí theo âm lịch cổ là ứng hợp ở các vùng Hoàng Hà của Trung Quốc nhưng dù thế nào thì tiết khí cũng có 4 tiết cơ bản là Hạ chí, Đông chí, Thu phân và Xuân phân trùng với những ngày cố định của dương lịch. Lấy 4 tiết chính cố định này chia thêm những tiết phụ nữa cho dễ nhớ, dễ biết. Chuyện đổi tên hay Việt hoá theo tôi là chuyện vớ vẩn, không cần thiết! 

Thật ra, những tiết như Sương Giáng, Đại Hàn... người dân mình hay nhầm ngày Đại Hàn là ngày rét nhất trong năm, nhưng không phải. Tiết Đại hàn phía Bắc (vùng Hoàng Hà, Trung Quốc) thật là rét và một tháng sau là tiết Tiểu hàn rét ít hơn để vào Lập Xuân. Ta có thể đổi Đại hàn thành tên gì cũng được, nhưng phép đổi tên đó không được để người dân nghĩ sai về lịch pháp hoặc coi như một sự sáng tạo riêng biệt.

Ông Nguyễn Chuyên (Hà Nội, email: nguyenchuyen@hn.vnn.vn): Nếu NXB nào cũng sáng tạo thì lịch tất loạn! 

Đọc bài phỏng vấn ông Trịnh Tiến Điều - Trưởng Ban lịch Nhà nước, trên VietNamNet, chúng tôi thấy ông phát biểu khá lộn xộn.Về cơ bản, chúng tôi không nhất trí với nhiều ý kiến của ông Điều trong bài phỏng vấn trên. Chúng tôi xin nêu mấy ý kiến sau: 

1. Khi ông Điều nói về “Việt hóa” có 2 cái sai: Một là, ông so sánh các thứ của Trung Quốc với Việt Nam là khập khiễng. Bảy ngày trong 1 tuần lễ là từ phương Tây vào Việt Nam cùng với các nhà truyền giáo (bằng chứng là ngày thứ Nhất được gọi là Chủ nhật hay Chúa nhật, tức là ngày của Chúa), không qua con đường Trung Quốc. Bởi thế các ngày trong tuần Việt Nam gọi là gì, Trung Quốc gọi là gì chẳng quan hệ đến nhau. Hai là, ông nói Trung Quốc có “tháng cồng chiêng”. Tôi không đọc nhiều, nhưng có cảm giác là ông nói sai. Xin ông hãy dẫn tài liệu GỐC của Trung Quốc, làm căn cứ xác đáng cho kiến giải của mình. Một “phát hiện lớn” như vậy, không nên nói bâng quơ! 

2. Khi trả lời câu thứ hai về các Tiết khí, ông chuyển sang nói về lịch Âm tại Trung Quốc và Nhật bản là lạc đề. Điều đó chứng tỏ ông không hiểu bản chất của Tiết khí và dễ làm độc giả hiểu sai vấn đề. Tiết khí là một lịch Mặt trời, chỉ phụ thuộc vào chuyển động biểu kiến của Mặt trời, không phụ thuộc gì vào Mặt trăng, không phụ thuộc vào lịch Âm, ngược lại chính lịch Âm phụ thuộc vào nó. Người xưa dùng nó trong 2 việc: Một là, để chỉ đạo sản xuất nông nghiệp: Tua rua đi cấy mạ mùa/ Tiểu thử đi bừa cấy ruộng nông sâu/ Hàn lộ lúa trỗ bằng đầu/ Lập đông ta quyết về mau gặt mùa”. Hai là, để đo độ lệch của lịch Âm thuần túy (được dùng ở các nước theo Đạo Hồi, một năm chỉ có 12 tháng) so với lịch Dương. Khi độ lệch đã đủ lớn, biểu hiện bằng một tháng Âm không có Trung khí, thì người ta đặt tháng Âm đó là tháng nhuận, tháng thứ 13. Thêm tháng nhuận, chính là đưa yếu tố Dương vào lịch Âm để tạo nên lịch Âm-Dương được dùng ở Việt Nam và Trung Quốc. Bởi thế việc bỏ hay dùng lịch Âm ở các nước khác không liên quan đến Tiết khí nói chung và ở Việt Nam nói riêng. 

3. Lịch là một hệ đơn vị đo thời gian. Đã là đơn vị đo lường thì phải có chuẩn Quốc gia để cùng nhau dùng, cả nước phải cùng nhau thống nhất dùng “một hệ đo” chứ không thể như ông Điều tùy tiện: “kêu gọi tất cả các NXB có thêm sự sáng tạo”, lại càng không thể “để thích hợp với nhân dân” được. Nhân đân thì đông, mỗi người mỗi ý, thích hợp sao được với tất cả mọi người dân; NXB cũng lắm, đóng ở các địa phương khác nhau, họ cảm nhận các hiện tượng thời tiết rất khác nhau. Nếu mỗi NXB có một “sáng tạo” riêng, thì lịch tất phải loạn! Chúng tôi không thể tưởng tượng nổi, tại sao một ông Trưởng ban của Nhà nước mà lại “kêu gọi” một sự phá hoại các quy tắc chung như vậy!  

4. Nhiều tên gọi các Tiết khí của Trung Quốc như: Tiểu Tuyết (tuyết nhỏ), Đại tuyết (tuyết lớn) … không hợp với Việt Nam. Ông cha ta đã có tên gọi Việt hóa (chữ màu đỏ) các Tiết khí này. Trong ngoặc đơn là tên cac Tiết khí theo Trung Quốc, khi khác nghĩa với tên đã Việt hóa thì có lời chú sau dấu gạch: 1- Giữa xuân (Xuân phân); 2- Trong sáng (Thanh minh); 3- Mưa rào (Cốc vũ – mưa tốt lúa ); 4- Đầu hè (Lập hạ); 5- Duối vàng (Tiểu mãn – lúa kết hạt); 6- Tua rua (Mang chủng – Lúa mọc râu); 7- Giữa hè (Hạ chí); 8- Nắng oi (Tiểu thử - nắng nhẹ); 9- Nóng nực (Đại thử - nắng gắt); 10- Đầu thu (Lập thu); 11- Mưa ngâu (Xử thử - nắng muộn); 12- Nắng nhạt (Bạch lộ - Móc trắng); 13- Giữa thu (Thu phân); 14- Mát mẻ (Hàn lộ - Móc lạnh); 15- Sương sa (Sương giáng); 16- Đầu đông (Lập đông); 17- Hanh heo (Tiểu tuyết – tuyết nhẹ); 18- Khô úa (Đại tuyết – tuyết lớn); 19- Giữa đông (Đông chí); 20- Chớm rét (Tiểu hàn); 21- Giá rét (Đại hàn – rét gắt); 22- Đầu xuân (Lập xuân); 23- Ẩm ướt (Vũ thủy – mưa nước); 24- Sâu nở (Kinh trập – sâu tỉnh dậy).  

Theo tôi được biết lịch của NXB Chính trị Quốc gia (NXB Sự thật xưa) hàng chục năm nay vẫn ghi như vậy. Đó là một nét đẹp truyền thống, không phải ai muốn đổi thế nào thì đổi, kể cả Trưởng Ban lịch nhà nước, nếu chưa được một Hội đồng khoa học cấp Nhà nước thông qua. Không phải năm này ông thay DUỐI VÀNG bằng MƯA LŨ, năm kia ông lại thay một ngày Tiết khí khác ... Rồi sau ông, một ông Trưởng Ban lịch khác lại thay 2, 3 Tiết khí nữa, cuối cùng truyền thống bị xóa bỏ. Việc thay tên gọi ngày Tiết khí này là một việc làm hết sức tùy tiện và võ đoán của ông Điều, vượt qua quyền hành của ông và chưa được ai cho phép.

  • Ban Văn hoá VietNamNet

Ý kiến của bạn về vấn đề này:

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,