221
1661
Phóng sự điều tra
psks
/psks/
999318
"Người kể chuyện"
1
Article
null
Ký sự về thổ dân Amazon - kỳ 2:
'Người kể chuyện'
,

Chiều hôm đó, Renato ghé thăm Feliciano Lana, một người Anh-điêng Tucano. Anh mang theo giấy và màu cho bạn mình. Feliciano đang vẽ minh hoạ cho một quyển sách về những huyền thoại anh được nghe người già nhất làng kể, khi anh còn là một đứa trẻ.

>> Kỳ 1: Bạn của người Anh - điêng 

Lời vọng từ quá khứ

Lều của anh nằm trên một khu đất cao ngay bên cạnh một ngọn đồi. Từ đây có thể phóng tầm mắt ra vô tận, đuổi theo con sông cho đến khi nó biến mất trong đám màu xanh mờ sương của khu rừng già. Từ chốn xa xăm ấy, năm năm trước, anh đã xuôi dòng về vùng Sao Gabriel này. “Vì sao?” “Vì bọn trẻ. Tôi muốn chúng đi học".

Feliciano Lana - người kể chuyện

Feliciano Lana - Người kể chuyện.

Căn lều hầu như không có gì ngoài một chỗ gọi là giường, ba giỏ hoa quả và vài cái võng mắc sẵn. Một chồng bản thảo nằm trên nền đất vụn – kí ức của một dân tộc đã lãng quên quá khứ. Feliciano bảo, anh là người theo Kitô giáo, nhưng truyện anh viết khác với chuyện các mục sư kể, bởi ở đây dân tộc được lựa chọn là người Tucano.

Tranh minh hoạ trong sách của Feliciano được vẽ rành rọt như dành cho thiếu nhi. Những trang sách soi sáng căn lều âm u. Giọng kể của anh tựa như những lời vọng về từ một quá khứ xa xăm: Đầu tiên là một người phụ nữ, bà ta tạo ra một vị thần từ đám khói của một điếu xì gà, ông thần này lại tạo ra con người.

Ban đầu tất cả nằm trong bụng một con rắn thần Anaconda, nó bơi ra từ hồ sữa trong rừng Amazon rồi xuôi theo dòng sông. Một chuyến đi dài, và con rắn thường phải dừng lại bên bờ sông để cho bớt người ra. Cứ mỗi lần vượt qua một trở ngại là bầy người lại tiến hóa lên thêm một bậc. Ngay từ những đoạn đầu, người da trắng đã rời đi về phía đông. Sau đó là người Maku và người Arawak. Những thành viên cuối cùng rời khỏi con rắn là người Tucano - trung tâm của sự hình thành con người và là dân tộc lãnh đạo.

Một vài câu chuyện của Feliciano gợi đến thuyết vũ trụ của đạo thiên chúa, ví dụ như những con người đầu tiên đã ăn một cái hạt rơi từ trên trời xuống. Sau đó, khi trời đổ xuống một cơn mưa trừng phạt, những người này đã chui vào những hốc cây để trốn. Một số chuyện khác thể hiện những quan niệm mê muội về giới tính:

“Những người đàn bà đầu tiên không hề có cơ quan sinh dục”, Feliciano kể. Trên tờ giấy anh đang vẽ có hình một người phụ nữ đang dang rộng chân, phía dưới là một dòng máu, đó là lúc cơ quan của chị ta mới được tách ra. Sau này dòng máu sẽ biến thành một làn sương mù màu đỏ và làm dậy lên những hơi cồn đầu tiên của loại đồ uống linh thiêng Capí.

Không có huyền thoại nào đề cao người phụ nữ: đây là Inamu, chúa hài đồng, toàn thân Người phát ra tiếng nhạc. Inamu xuống trần gian, mang cho con người một cây sáo thần. Cây sáo này đến bây giờ vẫn là vật sở hữu của đàn ông. Trong dịp lễ nếu như nó được đem ra thổi thì không người đàn bà nào được phép nhìn vào, hình phạt sẽ là cái chết.

Trong khi kể, Feliciano luôn quay ra ngó Renato, ý chừng muốn anh kể chuyện cùng. Và người kể chuyện nhiều khi tự đưa ra các giả thiết, bổ sung hay trích dẫn từ thế giới huyền bí của người Anh-điêng, rồi sau đó lại tự mình tán đồng hay bác bỏ. Chốc chốc, anh lại hỏi “Đúng thế chứ, phải không?” Renato gật đầu. “Đúng vậy!”.

Những lúc như thế Renato lại nhớ đến anh chàng người Do Thái Saul trong “Người kể chuyện”, tiểu thuyết về Amazon của Vargas Llosas. Saul quyết chí sống mãi trong rừng già, nơi anh, như một người đi rừng huyền bí, di chuyển từ bộ lạc này sang bộ khác. Anh “hiểu thấu tâm can”, biết hết các bí mật thầm kín của họ, anh nói chuyện với người da đỏ về chính huyền thoại và lịch sử của người da đỏ.

Còn anh, anh hiểu được gì từ người Maku? “Nhiều lắm, hiểu về chính mình thì đúng hơn”, Renato nói. Những năm ở cùng người Anh-điêng là thời gian tôi đi nhận dạng bản thân, ban đầu phải nếm trải cảm giác của người ngoại tộc duy nhất, rồi được chấp nhận thành thành viên của một dân tộc, nhưng lại là một dân tộc bị căm ghét, săn đuổi, tiêu diệt.” Ý anh là? “Ví dụ như, tôi là người Do Thái, có những chuyện khi đến đây tôi mới thực sự hiểu.”

Cunahá – Cái chết trong rừng sâu

Thổ dân Suruaha

Thổ dân Suruaha

Những phong tục kì lạ ư? Nhiều lắm. Mỗi bộ lạc ở đây đều có những bí mật riêng của họ. Và còn rất nhiều bộ lạc chúng ta chưa hề được tiếp xúc. – Anh có biết chuyện tự tử của người Suruaha không? Có chứ, cách đây ít lâu có một ông bác sĩ người Đức và một nhà tâm lý học người Brazil cũng tìm đến đây vì việc này. Nhưng tôi phải đính chính là thổ ngữ Suruaha không hề có từ “tự tử”.

Khu vực sinh sống của bộ lạc người Anh-điêng này nằm khá sâu trong vùng rừng Amazon. Đó là một dân tộc nhỏ, bao gồm các ông góa vợ, các bà góa chồng và những đứa trẻ mồ côi. Gần như, mỗi thành viên trong bộ lạc đều đã mất đi ít nhất là một người thân vì tục Suizid. Họ không gọi đó là tự tử, cũng không coi đó là điều trái tự nhiên. Đó là một phần tất yếu trong văn hóa của họ.

Sau mười ngày chèo thuyền và đi rừng đoàn nghiên cứu đó mới đến được khu vực của người Suruaha. Da Silva đã sống với người Anh-điêng tám năm, và được họ coi như bạn, ông Garve là bác sĩ nha khoa lưu động, đến khu rừng già này để chữa răng cho thổ dân. Họ thường xuyên nhai mía, nên răng lợi hỏng hết cả. Trong quá trình làm việc, ông hết sức ngạc nhiên khi nhận ra dân tộc này hầu như không có cảm giác đau. Nguyên nhân nằm ở chỗ, mọi người ở đây, không phân biệt tuổi tác, địa vị, đều thích hít một loại bột có tên là Komadi.

Một người Suruaha đang hít Komadi

Một người Suruaha đang hít Komadi

Thuốc phiện là một phần “đời sống ẩm thực” của người Suruaha. Komadi, một hỗn hợp từ tro của vỏ cây và bột thuốc lá, chỉ là loại dùng hàng ngày. Thứ thuốc độc này đưa con người ta vào thế giới của ma quỷ. Nó lấy đi sự tự chủ của họ. Không chỉ chi phối đời sống, nó quyết định cả cái chết. Hầu như không có ai ở làng này “ra đi” một cách tự nhiên. Mười năm vừa qua, nửa bộ lạc đã tự kết liễu đời mình.

Thứ ma túy đặc biệt dùng cho những “dịp” như vậy có tên là Curaha, loại ma túy nguy hiểm nhất. Nếu ai đó muốn tự tử, những người khác vẫn sẽ ra sức cứu chữa. Thi thoảng thì việc này cũng đem lại kết quả, chất độc cũng làm người được cứu tỉnh ngộ, không chán sống nữa. Nhưng thường khi mọi người đến thì đã muộn. Lý do tự tử thì có nhiều, nhưng đa phần rất “vớ vẩn”, ví dụ như mất một con gà, mất một cái rìu v.v. Khi một người thân qua đời, các thành viên còn lại của gia đình cũng không tỏ vẻ đau buồn, thương tiếc.

Những đứa trẻ mồ côi vì Suizid sẽ được họ hàng nuôi nấng. Bản thân chúng cũng học tập bố mẹ hút thuốc phiện. Cái chết với các em không có gì xa lạ. Bọn trẻ biết, một ngày nào đó Curaha cũng sẽ đưa chúng đến thế giới bên kia. Ở đó, bố mẹ các em đang đợi.

Sau cùng, vấn đề đeo đẳng chúng tôi vẫn là chuyện hòa nhập hay không hòa nhập của người Anh-điêng. Có nên để họ sống mãi nơi rừng thiêng này như những “động vật quý hiếm”, để mặc họ đối phó với cuộc đấu tranh sinh tồn, tự sinh tự diệt? Hay tạo điều kiện cho họ tiếp xúc với văn minh, ràng buộc họ với những mối lo mà lẽ ra họ không phải gánh chịu, để rồi, một vài thế kỉ sau, người da đỏ chính thức trở thành huyền thoại?

Amazon là tên gọi hệ thống sông và khu rừng mưa lớn nhất thế giới. Sông Amazon bắt nguồn từ dãy Andes ở Peru, chảy qua lãnh thổ của nhiều quốc gia như Brazil, Ecuador, Columbia, Bolivia rồi cuối cùng đổ ra Đại Tây Dương ở Belem, Brazil. Theo kết quả đo đạc mới nhất năm 2007 thì sông Amazon có tổng chiều dài 6800km, hiện là con sông dài nhất thế giới.

Có tổng cộng mười ngàn con sông lớn nhỏ thuộc hệ thống sông Amazon, trong số đó có 17 dòng dài hơn 1600 km. Sông chảy trên lãnh thổ Brazil thường có chiều rộng hàng cây số. Lưu lượng nước của toàn bộ hệ thống chiếm một phần năm tổng lượng nước ngọt toàn thế giới.

Diện tích toàn bộ khu vực Amazon tùy theo cách phân chia dao động từ 6-8 triệu km2, chiếm khoảng 35-45% lục địa Nam Mỹ. Đây là nơi trú ngụ của hàng trăm bộ lạc người Anh-điêng cùng hàng triệu loài động thực vật. Các nhà khoa học chưa thể đưa ra một con số chính xác về số lượng các loài nơi đây, bởi mới chỉ một phần khu rừng được nghiên cứu, khám phá. Trong số 1,4 triệu loài động thực vật được ghi chép, có khoảng 750.000 loài côn trùng, 200.000 loài thực vật, 40.000 loài động vật có xương sống, 360.000 loài vi sinh vật.

Khí hậu đặc trưng cho vùng Amazon là khí hậu nhiệt và cận nhiệt đới. Nhiệt độ trong năm dao động rất ít. Gần như ngày nào trong rừng cũng có những cơn mưa rào với lượng nước lớn, mang theo rất nhiều chất dinh dưỡng.
 

  • X.T (Lược dịch, theo SPIEGEL)
     

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,