221
1661
Phóng sự điều tra
psks
/psks/
984966
Kỳ 3: "Hoa hồng" nở trên núi đá
1
Article
null
Tộc người khốn khó ven trời Tây Bắc:
Kỳ 3: 'Hoa hồng' nở trên núi đá
,

(VietNamNet) - Con nước của suối Gium Bai chảy ra dòng Nậm Na, Nậm Na chung dòng với sông Đà. Rồi thêm một lần đổi dòng chung nước nữa mới gặp được sông Hồng mà chảy về với biển. Câu nói của Thủy nghe sao mà đắng lòng: “Con nước còn đổi đến ba dòng thì muốn nhắn gửi người nơi cuối sông Hồng chắc gì đã đến nơi”.

>> Kỳ 2: “Thác rượu” chảy nơi cuối rừng
>> Kỳ 1: Vượt rừng vào "xã đói nhất của tỉnh nghèo nhất"

Để gieo được con chữ trên đất Nậm Ban, các thầy cô giáo người Kinh, từ miền xuôi lên dạy học cũng phá đá, san rừng làm lối đi để đến được những bản xa, mang cái chữ cho con em đồng bào Mảng, H’Mông, Hà Nhì. Câu chuyện về những lớp học chênh vênh trên núi cao hay hun hút sâu nơi những cánh rừng đã viết nên truyện cổ tích tại mảnh đất “thậm nghèo”, “thậm khổ”, “thậm khó” này... 

Dựng lều đi học, đi dạy trong rừng

n
Lán trọ học tạm, Thầu A Lầu và Lý A Lồng đã mất hơn 1 tuần chuẩn bị “nhà mới” cho năm học
Mấy ngày nay, bên cạnh con suối Gium Bai, Thầu A Lầu, Lý A Lồng và Lý A Po đang chặt cây rừng và xếp các tấm cọ làm lán ở cho năm học mới. Hiện tại, “bản ngụ cư” của Lồng và Po đã được 7 nóc lán mái tranh, còn 3 lán nữa cũng sẽ được hoàn thành sớm.

Tất cả các lán dựng tạm đều là của học sinh lớp 7, 8 của các bản xa như Hua Pản (người Mảng); La Vả 1, 2 (người Mông). Một tuần trước ngày khai giảng, Lý A Po đã về Nậm Ô cùng đồ đạc gồm có gạo, muối đã chuẩn bị sẵn từ lâu...

Lầu nói: “Về bản La Vả 1 phải mất ngày trời đi đường, nên mang mỗi lần chỉ được 30 cân gạo. Tuần sau lại về lấy thêm, tất cả xong rồi. Lát nữa đi kiếm đá kê bếp rồi chờ cô giáo phát sách nữa là đi học được”.

Hiện tại, Trường THCS Nậm Ban chỉ có 376 học sinh, gồm các khối tiểu học, THCS và cả... lớp mầm non. Năm nay là năm đầu tiên trường có đủ học sinh lên tới lớp 8, gồm 14 em.

m
Nhà mới cho năm học mới đã xong
Thầy Phạm Quốc Bảo, 29 tuổi, Hiệu trưởng cho biết: “Những năm trước vì các em học lên lớp 7, 8 ít quá nên phải chuyển các em ra trường cấp 2 ở trung tâm huyện học. Nhưng sau một số em cũng bỏ dần, năm nay cũng đang vận động các em về lớp mới...”.

Đó là công việc ở trung tâm xã, bản Nậm Ô. Còn các “đầu cầu” xa khác như Hua Pản; Nậm Vả 1,2; Nậm Lảnh... thì các thầy cô giáo dạy tiểu học đã lên bản từ hôm 20/8 để vận động các em quay lại lớp. Thầy Bảo nói thêm: “Học sinh dựng lán tạm đi học thì các thầy, cô giáo dạy tiểu học cũng dựng lán tạm đi dạy”. Các cô, thầy bây giờ ngoài việc vận động học sinh quay lại lớp thì cũng đang dựng lán tạm cho mình ở mỗi bản xa tới hàng ngày trời đi bộ.

Ngay trong những ngày cuối cùng của tháng 8, còn tới 12 thầy cô chưa về tới trung tâm xã, mà khả năng phần nhiều sẽ không kịp về đón ngày khai giảng chung toàn trường.

Cô giáo Lê Thị Thu Huyền, 25 tuổi, dạy tiểu học ở Nậm Vả 1, đã đi hơn 10 ngày mới về kịp để đón khai giảng. Còn những bản xa như Hua Pản, Nậm Lảnh, Nậm Vả thì đều có từ 1 đến 2 giáo viên cắm bản, phụ trách cả... khối tiểu học. Thường thì các cô giáo kiêm luôn toàn khối.

n
Chênh vênh nơi lớp học tạm, cô giáo Huyền ươm mầm con chữ
Các cô giáo Huyền, Thủy, Vân vừa lo dựng lán xong cho các học sinh ở bản xa về trọ học lại quay sang chuẩn bị mọi thứ để vượt núi đi dạy học cắm bản. Tất cả mọi vật dụng được xếp đầy trong 2 túi du lịch to, ngoài ra còn lỉnh kỉnh các túi nilon to nhỏ khác. Đó là cá khô, măng khô và mấy cân thịt muối mang sẵn đi dự trữ làm lương thực trong khoảng từ 1 đến 2 tháng. Mỗi lần đi về phải mất cả ngày trời nên cố gắng mang được thứ gì thì mang.

Nhưng cái thiếu nhất vẫn là... gạo. “Gặp vào mùa đói thì có tiền cũng chẳng thể kiếm đâu ra bơ gạo để nấu ăn. Cả bản ăn sắn, cô giáo cũng phải ăn sắn cả tuần rồi cử người ra tận Pa Tần mua thì mới có cơm mà ăn...” - Thủy tâm sự.

Cả trường có 30 giáo viên thì có tới gần một nửa là các thầy cô giáo người Kinh từ miền xuôi lên núi dạy học. Người đến từ nơi xa nhất là cô giáo Lê Thị Thu Huyền, quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Chuẩn bị cho ngày khai giảng, mọi thứ đã sắp hoàn tất. Sách giáo khoa đã được chuyển về từ hôm 25/8. Bây giờ, cái thiếu nhất là phòng học ở các bản xa. Trường có tới 15 phòng học tạm, chủ yếu là lợp lán cây rừng.

“Chỉ cần sau mỗi mùa mưa là phòng chỉ còn nguyên nền đất. Trong năm học mới này, trường cố gắng dựng mới khoảng 20 lán tương đối kiên cố. Nhưng cái thiếu nhất là nhân công, dựng nhà bằng vách gỗ phải trong 1 tháng mới xong. Hầu hết số tiền dựng lán học đều do các thầy cô giáo tự bỏ tiền túi ra thuê người dựng lại để chuẩn bị cho năm học mới”.

“Hoa hồng” nở trên đá núi

n
Thầy hiệu trưởng trẻ Phạm Quốc Bảo, người có thâm niên lâu nhất ở núi rừng Nậm Ban
Chuyện kể rằng, có lần, vào ngày sinh của mình, học sinh đến chúc mừng cô giáo thì chị đã... òa khóc. Con gái vùng núi như bông hoa rừng, lấp lánh kiêu sa nhưng chẳng mấy ai biết đến.

Gần 10 năm gắn bó với núi rừng Lai Châu, chuyển hết từ vùng cao này tới vùng cao khác, tới Nậm Ban, gia tài vẫn chỉ là những chuyến đi. Còn chuyện chồng con thì vẫn hun hút như những lối đi băng rừng vào bản dạy học của chị...

Trong trường cũng đã có 3 gia đình là các thầy cô giáo đã đến với nhau để ổn định cuộc sống nơi sâu thẳm núi rừng này. Nhưng đa số các thầy cô có gia đình rồi thì vẫn đang trong tình trạng: chồng một nơi, vợ một nẻo. Con cái thì gửi về hết cho ông bà nội, ngoại. Ngay cả vị hiệu trưởng trẻ Phạm Quốc Bảo cũng gửi đứa con gái mới chỉ 3 tuổi ở Mường Lay cho ông bà ngoại để vào Nậm Ban hơn 5 năm nay.

Những thanh niên đang gửi trọn tuổi xuân của mình với núi rừng Nậm Ban khao khát lớn nhất là có 1 gia đình để ổn định mà cống hiến tiếp. Những mối tình giữa cô giáo người Kinh và thầy giáo người dân tộc đã trở thành mẫu mực cho “Tình yêu vượt núi”, để đến với nhau của những con người trên vùng đất khó này.

b
Sắp phải xa con, nâng niu con từng giờ từng phút để đi dạy học bản xa
Cô giáo Bùi Thị Vân, 27 tuổi (quê Thái Thụy, Thái Bình) đã vào Nậm Ban được 4 năm, đến nay đã có một gia đình nhỏ nơi góc rừng. Chồng của Vân là Tẩn A Pổng, người dân tộc Dao, là thầy giáo cùng trường.

Đám cưới của cô giáo người Kinh cách đây 2 năm được tổ chức ngay tại lớp học Trường THCS Nậm Ban. Chỉ một năm sau, một bông hồng tuyệt đẹp đã nở ngay giữa những ngày đói nhất. Tẩn Hồng Nhung, con gái anh chị, đã biết đi và gọi mẹ bằng cả hai thứ tiếng Dao và tiếng phổ thông.

Nhưng cũng chỉ một năm sau, A Pổng bị tai nạn gãy chân. Con còn nhỏ, chỉ có mấy hôm nữa là Vân đã phải vào bản đi dạy, bà nội của bé Hồng Nhung đã lặn lội từ Mường Lay lên chăm cháu để “mẹ Vân cơm đùm cơm nắm vào bản dạy học”.

Cũng có một mối tình khác ở Nậm Ban sắp đơm hoa kết trái. Cô giáo Lê Thị Thu Huyền (quê Hà Tĩnh) và thầy giáo Hoàng Văn Lượng (quê Bắc Giang) cũng sắp gắn bó đời mình với nhau. Cả hai đều là giáo viên tiểu học, Huyền dạy ở bản Nậm Vả 1, còn Lượng thì ở bên kia triền núi bản Nậm Vả 2.

Tuy 2 bản cùng tách ra từ một bản người Mông nhưng để đến được với nhau cũng mất cả buổi đi bộ. “Cả hai định chờ cho khai giảng xong rồi về xin phép gia đình hai bên. Còn đám cưới thì tổ chức gọn nhẹ tại Nậm Ban cho đơn giản...” - Huyền tâm sự.

Những đám cưới của các cô giáo miền xuôi vẫn luôn là sự kiện thu hút của đông đảo bà con dân bản. Đám cưới của Vân được ngay cả những người H’Mông, Hà Nhì ở bản xa cách tới cả ngày trời đường tới chia vui cùng cô giáo.

v
Câu nói của Thủy nghe sao mà đắng lòng: “Con nước còn đổi đến ba dòng thì muốn nhắn gửi người nơi cuối sông Hồng chắc gì đã đến nơi”.
Nhưng theo Bí thư xã Lý Mò Hừ, từ ngày mở trường tới giờ, người Nậm Ban mới chỉ có... mỗi đám cưới của cô giáo Vân! Vị bí thư đã ngoài 60 tuổi này nói như day dứt: “Phải kiếm cho các cô giáo tấm chồng thôi, cô giáo có gia đình thì mới còn ở lại với dân bản được chứ...”.

Chiều vùng biên miền Tây hoang hoải, gặp cơn mưa rả rích, tiếng suối Gium Bai chảy như ai đó nỉ non buồn tới nao lòng. Chiếc di động mở nhạc (ở Nậm Ban không có sóng di động, mua máy về chỉ để nghe đài, nghe nhạc cho... gọn nhẹ!), mấy cô giáo co ro ngồi nghe. Cô giáo Thủy bó gối cứ chăm chăm nhìn trời mưa, nước mắt tuôn ra lúc nào không biết... Thủy có người yêu ở quê tận Thái Bình, Thủy bảo: “Yêu thì yêu vậy nhưng đến với nhau thì chẳng biết khi nào”.

Con nước của suối Gium Bai chảy ra dòng Nậm Na, Nậm Na chung dòng với sông Đà. Rồi thêm một lần đổi dòng chung nước nữa mới gặp được sông Hồng mà chảy về với biển. Thế nên câu nói của Thủy nghe sao mà đắng lòng: “Con nước còn đổi đến ba dòng thì muốn nhắn gửi người nơi cuối sông Hồng chắc gì đã đến nơi”.

Trong cái thăm thẳm núi rừng Nậm Ban này thì một tiếng gà gáy cũng vang tới vài bản. Nhưng những đóa hoa thanh xuân đang khoe sắc thì chẳng ai biết tới. Vì xứ sở đã quá khốn khó này chẳng có cây gì có thể mọc được để ăn thì người ta còn đâu để ý đến những bông hoa rừng đang phai tàn nhan sắc của mình ở nơi nào đó khuất nẻo núi rừng.

  • Thông Chí - Thông Thiện

     Kỳ cuối: Giấc mơ Lý Pơ Gia

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,