221
5101
Chính sách
chinhsach
/kinhte/chinhsach/
924922
Nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ môi trường biển
1
Article
442
Kinh tế - Thị trường
kinhte
/kinhte/
Nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ môi trường biển
,

(VietNamNet) - Tuần qua, váng dầu đã lan ra tới vùng biển phía Bắc. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, vấn đề môi trường biển của Việt Nam đang nổi lên ngày càng gay gắt. VietNamNet xin giới thiệu bài viết thứ hai trong loạt bài của ông Ngô Lực Tải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật biển.

>>> Cần một tầm nhìn mới về môi trường biển

1

Nguồn ô nhiễm môi trường biển

Theo dự báo, thế kỷ 21 là kỷ nguyên phát triển rực rỡ của loài người nhưng đồng thời cũng là giai đoạn  thử thách gay go về môi trường sống đối với hành tinh xanh, nổi bật hàng đầu đó là tình trạng ô nhiễm môi trường biển trên trái đất.

Thống kê của Tổ chức môi trường thế giới cho biết các nguồn ô nhiễm sẽ đến từ : đất liền (50%), rò rỉ tự nhiên (11%), phóng xạ nguyên tử (13%) , hoạt động của tàu thuyền (18%) và tai nạn tàu bè trên biển (6%).

Ước tính mỗi năm có khoảng 2,4 triệu tấn dầu đổ ra biển. Vì vậy, cho đến nay đã có nhiều bộ luật quốc tế và quốc gia đang được  thực thi để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.

Hãy điểm qua một số bộ luật về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển:

Luật pháp quốc tế

Công ước năm 1982 của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNLOSC) là bộ luật hoàn chỉnh nhất về biển trong thời đại chúng ta, dành phần XII qui định việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển , gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ điều 192 đến 237). Đó là cơ sở pháp lý giúp các quốc gia bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển chung. Điểm nổi bật của Công ước là xác định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm.

Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78): Ra đời năm 1973, đây là bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới, đã được thông qua tại Hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển, do Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) triệu tập từ ngày 8/10 đến 2/12/1973. Công ước đưa ra những qui định nhằm ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận chuyển hàng hóa là dầu mỏ, hàng nguy hiểm, độc hại bằng tàu, cũng như do nước, rác và khí thải ra từ tàu.

Năm 1978, Công ước 1973 được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định thư 1978 kèm thêm 5 phụ lục mới, chính thức được gọi tắt là MARPOL 73/78. Tiếp đến năm 1997 Marpol 73/78 được bổ sung bằng Nghị định thư 1997 có thêm phụ lục thứ 6. Như vậy, đến nay Marpol 73/78 đang được thực thi nghiêm ngặt trong ngành hàng hải thế giới.

Ngoài ra, còn có khoảng 10 công ước và thỏa thuận quốc tế liên quan đến việc phòng chống ô nhiễm môi trường biển đang được áp dụng như:

  • Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng người trên biển (SOLAS).
  • Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô nhiễm dầu (OPRC).
  • Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất thải và những vật liệu khác (London 1972).
  • Các thỏa thuận khu vực để tạo điều kiện cho các cảng biển kiểm tra sự chấp hành luật lệ về bảo vệ môi trường biển của các tàu cập bến.

Luật pháp trong nước

Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2005. Bộ Luật gồm 15 chương và 136 điều khoản. Chương VII, mục 1 qui định về bảo vệ môi trường biển (từ điều 55 đến điều 58) với các nội dung:

  • Nguyên tắc bảo vệ môi trường biển
  • Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển
  • Kiểm soát xử lý ô nhiễm môi trường biển
  • Tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường biển

Điều 58 – điểm 2 qui định : “Lực lượng cứu nạn, cứu hộ quốc gia, lực lượng cảnh sát biển phải được đào tạo, huấn luyện trang bị phương tiện, thiết bị bảo đảm ứng phó sự cố môi trường trên biển”.

Điều 58 – điểm 4 qui định : “ Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND cấp Tỉnh ven biển trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phát hiện, cảnh báo, thông báo kịp thời về tai biến thiên nhiên, sự cố môi trường trên biển và tổ chức ứng phó, khắc phục hậu quả”.

Bộ luật hàng hải Việt Nam được Quốc hội khóa XI, kỳ họp lần thứ bảy thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2006. Đây là bộ chuyên ngành với 18 chương với 261 điều khoản.

Chương II (Tàu biển), Mục 5 nói về “ An toàn hàng hải , an ninh hàng hải và  phòng ngừa ô nhiễm môi trường”.

Điều 28, điểm 5 qui định : “ Tàu biển chuyên dùng để vận chuyển dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc các hàng hóa nguy hiểm khác bắt buộc phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi trường khi hoạt động trong vùng nước cảng biển và vùng biển Việt Nam”.

Tóm lại, trên bình diện quốc gia và phạm vi thế giới, đều có luật pháp để thực hiện bảo vệ và gìn giữ môi trường biển chống ô nhiễm. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia trong ngành hàng hải và môi trường đều băn khoăn là luật pháp về môi trường biển của nước ta hiện nay vẫn chưa thật đầy đủ và hoàn chỉnh đúng với vị thế của một quốc gia đang phát triển để trở thành một nước mạnh về biển trong khu vực, nhất là ở lĩnh vực bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Có thể, đây là vấn đề quan trọng cấp bách mà các cơ quan chức năng và Ngành lập pháp cần quan tâm hơn.

Xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường biển

Việt Nam là quốc gia biển, có diện tích biển gấp 3 lần lãnh thổ đất liền, đang lấy kinh tế biển có nhiều tiềm năng để xây dựng và phát triển đất nước mình trở thành một nước công nghiệp – hàng hải mạnh và tiên tiến trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu trên, trước hết cần xây dựng một chiến lược khả thi về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong sạch và bền vững, dựa trên cơ sở “sử dụng và khai thác” phải đi cùng với “gìn giữ và tái tạo”, sau đó mới xác định việc đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực được huấn luyện đào tạo và công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất kinh doanh.

Nâng cao năng lực quản lý

Sự cố tràn dầu từ biển vào duyên hải Miền Trung và Miền Nam vừa qua không phải là bất ngờ, mà là vấn đề đã biết từ hơn 10 năm qua, nhưng chưa được quan tâm theo dõi, nghiên cứu nghiêm túc để tìm biện pháp đề phòng, chế ngự, xử lý…

Nhân loại tiến ra biển và đại dương, các quốc gia bành trướng ra biển, hoạt động hàng hải và kinh tế biển ngày càng tăng, ô nhiễm môi trường, môi sinh biển là điều tất yếu.

Trong khi bộ máy quản lý về môi trường biển của chúng ta từ cấp vĩ mô đến vi mô không hề thiếu, chúng ta còn thiếu kiến thức khoa học – công nghệ tiên tiến, thiếu phương tiện, thiết bị máy móc hiện đại ; như tàu chuyên dùng khảo sát, nghiên cứu, vệ tinh phát hiện ô nhiễm trên biển cùng hệ thống các trạm phân tích, xử lý thông tin…

Luật pháp quốc tế và quốc gia tuy nhiều, khoa học – công nghệ phát hiện và xử lý ô nhiễm ngày càng hiện đại và tinh vi nhưng vẫn chưa đáp ứng và chế ngự được tai họa này của thời đại, chỉ còn hy vọng vào con người đó chính là khâu nâng cao năng lực của các tổ chức quản lý và bảo vệ môi trường biển mà ở Việt Nam đang trở thành vấn đề cấp thiết.

Cần một tầm nhìn xa hơn

Nhìn lại lịch sử tiến hóa của loài người ta thấy rằng thế hệ này ra đi, thế hệ khác kế tục, nhân loại vẫn tăng trưởng, văn minh trên trái đất ngày càng phát triển cao. Con người tuy có biến động theo chu kỳ tuổi tác, nhưng thế giới và quốc gia vẫn tồn tại gắn kết với thiên nhiên, âu đó cũng là một trong những qui luật sinh tồn. Điều đáng lưu ý là khi các dân tộc, các nước càng tiến bộ, càng văn minh thì thái độ và cách nhìn đối với môi trường, môi sinh chung quanh càng nghiêm túc và trân trọng bởi họ ý thức được rằng việc bảo vệ gìn giữ môi trườn,g môi sinh là nghĩa vụ sống còn của con người.

Việt Nam đang thực hiện chiến lược phát triển biển đến năm 2020, thiết nghĩ chúng ta phải nâng tầm nhìn về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không chỉ 10 năm hay 20 năm mà cả một thế hệ sau.

  • Ngô Lực Tải

Ý kiến bạn đọc:

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,