221
442
Kinh tế - Thị trường
kinhte
/kinhte/
1042819
Căng thẳng thiếu vốn VND
1
Article
null
Căng thẳng thiếu vốn VND
,

 - Cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn tiền Đồng Việt Nam giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) dường như có phần “bớt nóng”, bởi vì Ngân hàng Nhà nước có Công điện quy định trần lãi suất tiền gửi không quá 12%/năm và kiểm soát chặt chẽ việc khuyến mại ẩn giấu sau lãi suất. Tuy nhiên tình trạng thiếu vốn Đồng Việt Nam tại nhiều NHTM thì không nguội đi chút nào, thậm chí còn căng hơn đối với một số NHTM cổ phần.

Căng thẳng vốn khả dụng VND

Do căng thẳng về vốn khả dụng Đồng Việt Nam (VND), NHTM cổ phần A có trụ sở chính tại TP.HCM mới chuyển từ NHTM cổ phần nông thôn lên thành NHTM cổ phần đô thị cách đây không lâu đã phải” cầu cứu” đến cổ đông lớn là một tập đoàn kinh tế đứng hàng đầu của đất nước.

Trước bối cảnh khó khăn tập đoàn này đã phải ra tay nhờ tiềm lực tài chính mạnh, thu từ tiền thanh toán của khách hàng hỗ trợ.

Ông H, giám đốc một chi nhánh NHTM cổ phần S đóng trên phố Bà Triệu - Hà Nội cũng bày tỏ sự lo lắng, trước đây thiếu vốn cho vay chi nhánh chỉ cần báo cho hội sở chính, là được điều chuyển vốn về, song hiện nay trụ sở chính đang phải lo vốn cho tăng dự trữ bắt buộc và mua tín phiếu Ngân hàng nhà nước ( NHNN), nên chi nhánh hết sức vất vả để xoay sở vốn. Tại thời điểm này chi nhánh NHTM cổ phần S nói trên hầu như ngừng cho vay, chỉ tạm thời chấp nhận cho vay đối với khách hàng cầm cố sổ tiết kiệm, còn thì tập trung thu nợ, thậm chí không chấp nhận giãn nợ cho bất kỳ khách hàng nào với lý do gì. NHTM cổ phần S cũng mới chuyển từ mô hình nông thôn lên đô thị và là NHTM cổ phần thứ hai “ nổ phát súng “ tăng lãi suất lên 12%/năm giữa tháng 2 – 2008 vừa qua.

c
Tình trạng thiếu vốn VND đã trở nên căng thẳng tại nhiều NHTM.( Ảnh minh hoạ)

Trưởng phòng kinh doanh Q cũng của một chi nhánh NHTM cổ phần Đ mới chuyển từ nông thôn lên đô thị đóng ở phố Bà Triệu – Hà Nội cũng cho biết, chi nhánh hiện nay hầu như không cho vay mà tập trung huy động vốn để chuyển về trụ sở chính ở một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long cho xử lý các vấn đề về thanh toán trong ngắn hạn.

Một số NHTM cổ phần khác vẫn cho vay nhưng tăng lãi suất lên rất cao, ngắn hạn tới 1,95%/tháng, trung và dài hạn tới 2,0% - 2,05%/tháng. Với mức lãi suất đó chỉ có những khách hàng thực sự quá khó khăn, hoặc đầu tư mạo hiểm theo kiểu “ lướt sóng “  mua vàng  mới dám vay, bởi vì hiếm có lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào có mức lợi nhuận 24% - 26%/năm đủ để trả lãi ngân hàng.

Tình trạng thiếu vốn đối với các NHTM nhà nước thì có vẻ như khả quan hơn. Song hiện nay có 2 NHTM Nhà nước lại khống chế dư nợ cho vay đối với các chi nhánh của mình. Mức khống chế của 2 NHTM này đó là các chi nhánh không được cho vay vượt quá mức dư nợ thời điểm 30-11-2007, tức là có thu được nợ thì mới cho vay tiếp, số vốn huy động được chuyển cho trụ sở chính.

Khan hiếm vốn nội tệ do đâu?
 
Nguyên nhân đầu tiên đó là, chưa xong “ vụ” lo mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc NHNN, thì hiện nay NHNN tuyên bố công khai tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM. Mức tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc không biết là bao nhiêu, nhưng chỉ cần tăng thêm 1% thì tổng số tiền dự trữ bắt buộc phải nộp thêm cho NHNN đã lên tới gần 10.000 tỷ đồng, tức là bằng 50% mức tín phiếu phải mua rồi, còn nếu tăng thêm 2-3% thì rõ ràng khối lượng vốn phải chuẩn bị là cực kỳ lớn.

Nguyên nhân thường trực vẫn là chuẩn bị tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN vì chỉ còn ít ngày nữa là phải nộp tiền cho NHNN rồi, mặc dù NHNN công bố có thể giãn tiến độ nộp tiền nhưng không biết giãn như thế nào. Đợt cạnh tranh đua nhau tăng lãi suất huy động vốn từ ngày 18-2-2008 đến nay đã làm cho vốn của các NHTM Nhà nước bị “ chạy quá nhiều “ sang NHTM cổ phần; trong khi đó ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ hay mới chuyển từ nông thôn lên đô thị nhanh chân tăng lãi suất lên 12%/năm thu hút được 500 – 1.000 tỷ đồng thì cũng chỉ đủ mua tín phiếu NHNN chứ chưa nói đến việc phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm trong tháng 2-2008. Bởi vì hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua tín phiếu NHNN với khối lượng tới 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 – 500 tỷ đồng/ngân hàng. Các NHTM cổ phần quy mô nhỏ cũng phải mua 300 – 400 tỷ đồng.

Nguyên nhân về quản trị điều hành vốn thì xảy ra chủ yếu đối với các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình. Bởi vì các NHTM cổ phần này có màng lưới hẹp, số chi nhánh và phòng giao dịch ít, dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, nên việc thu hút tiền gửi có nhiều hạn chế, trong khi đó mở rộng cho vay nhanh, buộc các NHTM cổ phần này phải tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường II, tức đi vay trên thị trường liên ngân hàng. Các NHTM cổ phần dạng này vay ngắn hạn khối lượng vốn đáng kể của các NHTM Nhà nước, của một số NHTM cổ phần quy mô lớn. Đến nay các NHTM cho vay thu hồi vốn về, không cho vay mới để lo các yêu cầu vốn của mình, đã đẩy các NHTM cổ phần nhỏ và trung bình đi vay lâm vào tình trạng khó khăn.

Cũng một nguyên nhân quan trọng khác thuộc về các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và quy mô trung bình đó là các ngân hàng này trước đây không mua tín phiếu NHNN, không mua tín phiếu Kho bạc nhà nước, Trái phiếu chính phủ,…Bởi vậy trong đợt cuối tháng 2-2008 vừa qua NHNN bơm 43.000 tỷ đồng kỳ hạn ngắn 7- 14 ngày qua nghiệp vụ thị trường mở hỗ trợ vốn khả dụng cho các NHTM, nhưng các NHTM cổ phần quy mô nhỏ và trung bình đều đứng ngoại cuộc, không được “ hưởng lợi” chút nào từ NHNN, buộc phải đi vay lại của NHTM khác với mức lãi suất từ 20% - 40%/năm.

Tác động rõ rệt nhất của tình trạng nói trên đó là nhiều nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh không được đáp ứng, hoặc phải vay thì với lãi suất quá cao, không có lãi, thậm chí là thua lỗ. Mặt bằng lãi suất cho vay trong nền kinh tế bị đẩy lên, làm tăng chi phí và tăng giá thành  sản phẩm, dịch vụ, đẩy giá bán tăng lên…từ đó tác động đến chỉ số tăng giá trên thị trường xã hội.  Hàng chục nghìn tỷ đồng bị thu về “ giam trong kho” NHNN.

Năng lực tài chính của cả các NHTM và cả NHNN bị gảm sút do lãi suất cao, do phải trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc và tín phiếu NHNN. Rủi ro của các doanh nghiệp, rủi ro của các NHTM và của NHNN tăng lên. Từ đó ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho người lao động.

Bởi vậy có thể khẳng định mục tiêu kiềm chế lạm phát là đúng, nhưng cần kết hợp đồng bộ giữa thắt chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt chính sách tài khoá, quản lý có hiệu quả chính sách đầu tư, thực hiện tốt chính sách phát triển nông nhiệp – nông thôn… Chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng cũng phải linh hoạt, có lộ trình và liều lượng thích hợp. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay cần ưu tiên cho tăng trưởng.

  • Nguyễn Hà

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,