221
2081
CNTT - Viễn thông
cntt
/cntt/
692574
Ngành Bưu chính viễn thông: Bài học đi thẳng lên hiện đại
1
Article
null
Ngành Bưu chính viễn thông: Bài học đi thẳng lên hiện đại
,

(VietNamNet) - Ra đời trong mùa thu Cách mạng tháng 8 năm 1945, sáu mươi năm qua, ngành BC -VT luôn hành trình cùng đất nước.

Trong hai cuộc kháng chiến, gần một vạn cán bộ ngành BCVT đã hi sinh để ngành mình thực hiện được nhiệm vụ vẻ vang và khó khăn: đảm bảo thông tin liên lạc, an toàn thông tin quốc gia. Truyền thống quý báu đó đã được đúc kết trong 10 chữ vàng: Trung thành - Dũng cảm - Tận tuỵ - Sáng tạo - Nghĩa tình.

Ngành BC-VT cũng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, góp phần đắc lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 20 năm qua. Qua việc xây dựng nên mạng lưới viễn thông hiện đại từ cơ sở hết sức lạc hậu về kỹ thuật bằng chính đôi chân, trí tuệ của mình, ngành đã thể hiện bản lĩnh và sức sáng tạo mạnh mẽ trong thời kỳ mới. Việc xây dựng nên mạng lưới CN-VT hiện đại, đa dịch vụ, phát triển ngang tầm với các nước của ngành đã được Nhà nước và Nhân dân ghi nhận bằng Huân chương Sao Vàng. Một phần thưởng cao quý dành cho những người anh hùng thời kỳ đổi mới.

Trong chặng đường mới với những khát vọng hội nhập mạnh mẽ hơn của đất nước, ngành BC-VT cũng đang đứng trước những cơ hội mới mẻ, đồng thời phải đối mặt với những thách thức mới đòi hỏi những nỗ lực mới, đột phá mới, sức sáng tạo mới trong từng cán bộ, công nhân viên.

Để hiểu thêm về một ngành công nghệ - dịch vụ then chốt của đất nước, hiểu thêm về những con người từng giờ, từng phút đem đến những dịch vụ gần gũi và thiết thực với cuộc sống của từng người dân, để chia sẻ và tạo góp thêm động lực phấn đấu cho những cán bộ công nhân viên của ngành BC -VT, mời các bạn theo dõi nội dung buổi bàn tròn trực tuyến kỷ niệm 60 năm thành lập ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Khách mời cuộc bàn tròn hôm nay gồm: Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá, Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông VN Phạm Long Trận, Chủ tịch Công đoàn Ngành Bưu điện Phan Hoàng Đức, Hiệp sĩ CNTT 2005 Huỳnh Ngọc Ẩn - cán bộ Bưu điện Đồng Tháp, cùng người dẫn lời bàn tròn là Tổng biên tập Báo điện tử VietNamNet - Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn.

Sau đây là nội dung cuộc bàn tròn kỷ niệm 60 năm ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam:

 

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa quý vị, suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, Bưu điện Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, hy sinh xương máu nhằm bảo đảm an toàn nhiệm vụ thông tin liên lạc quốc gia. Trong công cuộc đổi mới,  Bưu điện cũng là ngành đi đầu, được ghi nhận với Huân chương Sao Vàng, với những chữ vàng: Trung thành - Dũng cảm - Sáng tạo - Tận tụy - Nghĩa tình.

Tại trường quay của chúng ta hôm nay, tôi xin trân trọng giới thiệu các vị khách mời - những người đang giữ trọng trách lớn của ngành Bưu chính Viễn thông trong giai đoạn đổi mới hôm nay: GS.TSKH Đỗ Trung Tá - Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, Ủy viên Trung ương Đảng; ông Phạm Long Trận - Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam; ông Phan Hoàng Đức - Chủ tịch Công đoàn Bưu điện Việt Nam và Hiệp sỹ CNTT Huỳnh Ngọc Ẩn - hiện đang làm việc tại Bưu điện Đồng Tháp.

Trong những ngày này, có lẽ những người công tác trong ngành Bưu chính Viễn thông đều bồi hồi, xúc động nhớ về những giai đoạn lịch sử của đất nước, nhớ về những ngày tháng sôi động trong quãng đời làm việc và cống hiến của mình. Thưa Bộ trưởng, là người gắn bó với ngành BC -VT suốt 40 năm qua, luôn giữ những trọng trách quan trọng của ngành trong những thời điểm có dấu ấn, xin Bộ trưởng nhìn nhận lại đôi nét thành tựu của ngành Bưu chính Viễn thông - đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới?

- Bộ trưởng Đỗ Trung Tá:

Bộ trưởng Bộ BCVT, TSKH Đỗ Trung Tá (bên phải) phát biểu tại bàn tròn trực tuyến VietNamNet.

- Năm nay, ngành Bưu điện kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống của ngành. Có thể nói trong suốt 60 năm qua, ngành Bưu điện đã lập nên những kỳ tích trong chiến đấu cũng như những thành tựu trong giai đoạn đổi mới. Chúng tôi vẫn luôn nhớ về những truyền thống của ngành.

Trải qua hai cuộc kháng chiến, hàng vạn cán bộ công nhân viên Bưu điện đã hy sinh, con số này chỉ sau hai lực lượng an ninh và quốc phòng. Trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, ngành đã có nhiều đóng góp cho đất nước rất đáng tự hào.

Chúng ta đã có hai giai đoạn tăng tốc nhanh: Từ năm 1993 đến 1995 và từ năm 1996 đến 2000. Năm 1995 kết thúc giai đoạn I của chiến lược tăng tốc, đánh dấu bằng việc đạt mật độ điện thoại 1máy/100 dân. Cho đến hôm nay đã đạt gần 15 máy/100 dân, cuối năm nay sẽ là 16 máy/100 dân. Đó thực là những thành quả rất đáng tự hào.

Không những thế, về mặt đóng góp cho xã hội, chúng ta đã có một cơ sở hạ tầng thông tin hết sức hiện đại, quy mô lớn và không chỉ phục vụ cho các thành phố mà cả cho nông thôn, vùng sâu vùng xa. Và chúng ta là một trong những nước có ngành Bưu chính Viễn thông thực hiện rất rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.

Mỗi người dân Việt Nam hiện nay ít nhiều cũng được thừa hưởng những thành quả của đổi mới thông qua sử dụng các dịch vụ Bưu chính Viễn thông, Internet và Công nghệ thông tin.

Mỗi năm - nhất là những năm gần đây, Bưu chính Viễn thông đóng góp vào ngân sách Nhà nước khoảng từ 3.000 tỷ đồng đến 5.000 tỷ đồng (Ví dụ: năm ngoái là 4.900 tỷ và năm nay là 5.000 tỷ). Tuy đóng góp lớn như vậy nhưng chúng ta cũng hết sức chú ý đến nghĩa vụ công ích. Hiện nay, khoảng 98% số xã trong cả nước đã có điện thoại; 90% số xã nhận được báo Đảng ngay trong ngày. Hiện tại, các điểm Bưu điện văn hóa xã (một sáng kiến của ngành Bưu điện) đã đạt khoảng 8.000 điểm/tổng số 9.000 xã của cả nước. Khoảng cách trung bình của người dân với các điểm Bưu điện phục vụ vào khoảng 2,6 - 2,7 km.

Có thể nói, có được sự phát triển vững chắc đó là nhờ: một hạ tầng hiện đại, nhiều dịch vụ phong phú và quyết định mở cửa cạnh tranh đúng lúc của ngành. Cho đến nay, thị trường Viễn thông VN đã có 6 doanh nghiệp cùng được cung cấp hạ tầng mạng và các dịch vụ giống như Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT). Đây là một bước tiến lớn và sự cạnh tranh đã rất sôi động. Sự bùng nổ và phát triển của thông tin di động VN là điểm sáng được báo chí và dư luận ghi nhận trong thời gian qua. Trong khu vực châu Á, mức bình quân phát triển cũng chỉ vào khoảng 38 -39%/năm, nhưng ngành Bưu điện Việt Nam trong những năm qua đã phát triển tới 62% - 63%, có khả năng đến cuối năm nay, tốc độ tăng trưởng về thông tin di động của VN lên tới 70%.

Nhờ sự cạnh tranh đó, người dùng được hưởng giá thành rẻ hơn, được lựa chọn nhà cung cấp cho mình và cũng được chăm sóc chu đáo hơn.

Thành tích cơ bản hơn là qua đó, chúng ta đã tạo ra một môi trường cạnh tranh, mở cửa và tạo cho nhiều thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực Bưu chính Viễn thông. Chúng ta bước vào giai đoạn hội nhập với quốc tế, tham gia tổ chức WTO, nên các doanh nghiệp sẽ làm quen với cạnh tranh, không chỉ cạnh tranh trong nước mà còn cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Và làm sao trong cạnh tranh như thế chúng ta vừa phát triển kinh tế vừa giữ vững được độc lập chủ quyền của đất nước Việt Nam. Chúng tôi vẫn nói với nhau rằng, "dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thông tin rất phát triển, chúng ta tiến vào xã hội thông tin, tiến vào kinh tế tri thức, nhưng chúng ta phải giữ được nét đẹp duyên dáng, làm sao chữ S của chúng ta không bị vẩn đục, nhất là trong thông tin".

"Câu chuyện thần kỳ!"

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Đã có rất nhiều câu hỏi được chuyển đến VietNamNet, điều đó cho thấy, lĩnh vực BC -VT thực sự là lĩnh vực được bạn đọc quan tâm, như "cơm ăn nước uống thiết yếu" với bạn đọc hàng ngày.

Nhiều bạn đọc đều có chung quan điểm mong muốn Bộ trưởng và các vị khách chia sẻ, rằng: Câu chuyện mạng lưới Bưu chính Viễn thông là câu chuyện thần kỳ.

Có một câu hỏi, cụ thể của bạn đọc Nguyễn Tân Ánh ở Bắc Giang, như sau: "Những năm 90, gọi một cuộc điện thoại từ Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh có khi phải chờ đến hàng tiếng đồng hồ. Sau ba năm, đến năm 1993, các cuộc gọi liên tỉnh đã tự động hóa hoàn toàn. Vậy, ngành BC -VT đã có những giải pháp gì để làm nên câu chuyện thần kỳ như vậy, từ một mạng lưới lạc hậu thô sơ và dịch vụ thiếu thốn, đã "vươn vai" như câu chuyện Thánh Gióng để trở thành một mạng lưới hiện đại như ngày nay?

- Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Chúng ta rất cảm ơn nhận xét như vậy, tất nhiên vẫn chưa được mức thần kỳ như Thánh Gióng. Bản thân chúng ta là những người làm trực tiếp từ những năm đó đến nay thì cũng cảm thấy giật mình về sự phát triển. Nếu nói trước những năm 90, trong một hội nghị khoa học, chúng tôi đã tranh cãi với nhau rằng: Để khách hàng đợi 90 phút hay 60 phút hay 45, 30 phút cho một cuộc điện thoại kết nối liên tỉnh và quốc tế?. Và đa số ý kiến đều cho rằng, khó có thể đạt được thời gian chờ đợi ngắn. Nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn, chúng ta đã khắc phục và phải khắc phục. Đối với quốc tế buộc phải theo tiêu chuẩn quốc tế toàn cầu hóa, đối với trong nước cũng cần phải rút ngắn. Chính vì vậy, có thể nói một số giải pháp như thế này đã giúp chúng ta rút ngắn được thời gian, "gọi cuộc nào được cuộc nấy và gọi đâu được đấy":

Thứ nhất, chúng ta đi ngay vào công nghệ hiện đại. Công nghệ hiện đại giải quyết vấn đề tốc độ, giải quyết vấn đề chất lượng, và giải quyết vấn đề chi phí cho tiết kiệm, nên chúng ta đã rất thành công trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào mạng lưới của mình.

Nhưng công nghệ hiện đại thì lấy tiền ở đâu? Chúng ta xác định quan điểm lấy ngoài nuôi trong. Chúng ta mở mang hợp tác quốc tế, trước hết là hợp tác với Úc để thu hút tiền cước điện thoại gọi quốc tế. Số tiền thu được hàng năm tăng lên rất nhanh, ngành BCVT lấy tiền đó đầu tư các tổng đài hiện đại tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Chúng ta nhanh chóng góp vốn với Úc để xây dựng các trạm vệ tinh tại ba thành phố lớn nói trên. Nhờ tăng nhanh khoản thu ngoại tệ nên ngành đã có thể vừa hiện đại hoá trong nước, vừa mở rộng kênh liên lạc với các nước trên thế giới.

Ngoài ra, ngành BCVT cũng tận dụng nguồn vốn ODA để làm mạng đường trục cáp quang trong nước. Như vậy, ngay từ những năm đầu, Việt Nam đã thiết lập một mạng thông tin quốc tế và liên tỉnh hết sức thuận lợi cho người sử dụng.

Chúng tôi quen gọi đó là làm từ Z đến A. Vươn ra quốc tế để kinh doanh có tiền, từ đó phát triển các dịch vụ trong nước như giải quyết vấn đề kết nối liên tỉnh, giải quyết dứt điểm việc khách hàng phải chờ đợi kết nối cuộc gọi, sau đó lần lượt "gỡ" những vấn đề của mạng nội hạt.

Có thể nói trong thời kỳ đó, cụ thể là năm 1987, ngành cũng gặp phải những khó khăn về viễn thông. Nhưng từ năm 1988 trở đi thì không còn gặp khó khăn về thời gian thực hiện các cuộc gọi nữa. Chính vì thế, các cuộc gọi trong nước gọi đi và nước ngoài gọi về đều có thể thực hiện lập tức, không phải chờ đợi. Nhiều người đã sửng sốt khi đi ra các quốc gia khác và đều thấy rằng mạng viễn thông các nước đó bây giờ không hiện đại và thuận lợi được như Việt Nam. Có lẽ vì điều này mà dư luận xã hội và các chuyên gia trong lĩnh vực này đều đánh giá đây là bước tiến nhảy vọt, khiến các nước khác rất ngỡ ngàng, và đúng là bước tiến thần kỳ.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vâng, quả thực đó là một giai đoạn thần kỳ.

 Mong Bộ trưởng và các khách mời có thể chia sẻ những ký ức của mình về thời kỳ này.Tôi muốn hỏi là:  Khi lựa chọn chiến lược phát triển ĐI THẲNG lên công nghệ hiện đại như vậy, liệu quyết định táo bạo đó có vấp phải sự bàn cãi, tranh luận nào không?  Tôi nhớ, tại thời điểm đó, nhiều người đã có những ý kiến khác nhau về các bước phát triển của ngành BCVT. Có người cho rằng phải đi từng bước, không nên đi thẳng lên hiện đại, nhưng cuối cùng chúng ta lại đưa ra được quyết định sáng suốt đó. Rất mong các vị khách mời chia sẻ vấn đề này vì nhiều độc giả có thể chưa rõ được những "nỗi khó xử" của thời kỳ đó.

- Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Có lẽ vấn đề này, nên mời anh Trận và anh Đức bổ sung thêm sau vì một số việc liên quan đến công đoàn. Đi thẳng lên hiện đại thì chúng ta phải trả giá cái gì? Đây là vấn đề hết sức khó khăn trong giai đoạn đầu. Một số ý kiến anh em lúc đó có nói: Chúng ta nghèo quá thì tiền đâu mà mua trang thiết bị hiện đại, thôi cứ sử dụng đồ cũ đi. Bài học mà họ nói đến giờ tôi vẫn nhớ: một chiếc xe 67 của Nhật tại đồng bằng sông Cửu Long không chỉ chở 1 người mà "tải" tới 15 - 16 người, vậy thì sao ta không sử dụng cái đó đi rồi từ từ mua xe Dream, sẽ tốt hơn là đi vào công nghệ mới ngay mà không có tiền.

Trong lúc đó, tài khoản của Bưu điện Việt Nam trong ngân hàng chỉ vài trăm ngàn đô la đã là của hiếm, và cần có nhiều giấy phép của Chính phủ, Ngân hàng mới có thể chi được. Lúc đó ta đang có một số trang thiết bị analog rất mới vừa nhập của Đông Đức về. Vậy thì chúng ta có lãng phí không?

Lãnh đạo ngành lúc đó cũng đã tính đi tính lại. Nếu tính về lâu dài, công nghệ mới sẽ giúp chúng ta hòa nhập ngay được với thế giới. Làm như vậy thì sẽ có doanh thu để đầu tư tiếp. Đó là cái lợi về kinh tế. Thêm nữa, công nghệ phát triển rất nhanh, nếu chúng ta cứ ôm công nghệ cũ thì sau này chỉ riêng khoản linh kiện thay thế và bảo dưỡng phục vụ thiết bị chắc cũng tốn không ít. Chúng ta đi ngay vào công nghệ số thì không chỉ hòa nhập ngay với thế giới, mà việc bảo dưỡng trang thiết bị số thì cũng thuận lợi hơn rất nhiều so với thiết bị tương tự analog. Việc đào tạo nhân lực cũng có thể rất nhanh vì công nghệ số không khó như công nghệ cũ.

Nhiều người lúc đó lo rằng mình còn chưa có đội ngũ cán bộ chuyên môn. Nhưng lãnh đạo ngành khẳng định đội ngũ khoa học kỹ thuật của Bưu điện hoàn toàn có thể đảm đương được công nghệ mới mà không cần người nước ngoài hỗ trợ về bảo dưỡng và khai thác. Niềm tin đó đã giúp chúng tôi vượt qua khó khăn.

Một khó khăn nữa là ngành Bưu điện lúc đó có tới 6 vạn người nhưng doanh thu rất thấp. Nhiều người lúc đó đã phải xem nguồn sống chính của mình là sửa chữa ti vi chứ không phải làm Bưu điện. Lúc đó ngành đề ra tiếp một mục tiêu nữa: Người Bưu điện phải sống bằng nghề Bưu điện. Chúng ta không chỉ phải tạo công ăn việc làm,mà còn phải giải quyết vấn đề nhân lực để đáp ứng công nghệ mới. Đó là một thách thức lớn.

 

Với yêu cầu đó, Bưu điện đã chọn bước đột phá đầu tiên là hợp tác với Úc. Họ mang tổng đài vào Việt Nam triển khai, sau đó chia lãi chứ ta không phải bỏ tiền đầu tư. Ý tưởng về hợp đồng hợp tác kinh doanh xuất hiện từ đó. Các nước đầu tư tiền vào, doanh thu sau khi trừ đi các chi phí chung sẽ được chia theo tỷ lệ. Chuyên gia nước ngoài chỉ hỗ trợ kinh nghiệm quản lý công nghệ và khai thác, còn toàn bộ hệ thống là do người Việt Nam đảm nhiệm. Chính vì thế, chúng ta đã thành công ngay từ trước những năm 90. Cho đến nay, thành công đó đã được phát huy rất rõ không chỉ qua những hợp tác về viễn thông cố định, mà còn cả trong lĩnh vực thông tin di động.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vâng, nhưng việc chúng ta lựa chọn chiến lược táo bạo và cách thức kinh doanh hợp tác như vậy đối với thời điểm lúc đó còn quá mới, liệu có vấp phải những lực cản hay ý kiến trái chiều nào không? Và những người cầm cân nảy mực lúc đó đã phải vượt qua những ý kiến trái chiều đó để định ra được chiến lược đúng như thế nào?

- Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Có, các ý kiến trái chiều có ngay cả trong ngành chứ không chỉ ngoài ngành.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bộ trưởng có thể cho biết cụ thể các ý kiến đó như thế nào?

- Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Lực cản xuất hiện đúng vào lúc chúng ta quyết định tiếp cận công nghệ mới. Công nghệ mới lại nằm ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta còn đang thi hành hiệp định với Liên Xô (cũ). Hiệp định đang được thực hiện, nên chúng tôi đề nghị phần cột kèo và xe com-măng-ca (u oát) vẫn nhập của Liên Xô, nhưng xin đấu thầu mua thiết bị của nước khác. Chính vì thế chúng ta thấy trên cột kèo của Liên Xô có các thiết bị viba số của Pháp và của Siemens của Đức.

Thứ hai, đề xuất đi thẳng vào công nghệ hiện đại ảnh hưởng tới nhiều ngành khác đang có hợp đồng với các nước xã hội chủ nghĩa. Ví dụ như Bộ Công an đang có hợp đồng thiết bị rất lớn về thông tin vô tuyến, nên cũng phải đề nghị Chính phủ xem xét lại. Chính lúc đó, nguyên Thủ tướng Phạm Hùng đã đồng ý việc chúng ta phải đi nhanh vào công nghệ mới.

Còn một điều mà cả anh em trong ngành cũng lo ngại: liệu chúng ta có bị chi phối và ảnh hưởng về chính trị thông qua những hoạt động này không? Cách giải quyết của Bưu điện là chỉ mua công nghệ và thiết bị, còn "đối tác" phải đào tạo và hỗ trợ để chúng ta tự làm chủ thiết bị của mình. Vì thế, trong sự hợp tác vẫn đảm bảo được tính độc lập. Trong quá trình phát triển mạng viễn thông, chúng ta đã hoàn toàn tự đào tạo rồi tái đào tạo đội ngũ cán bộ BCVT, cũng như sử dụng nhiều thế hệ thanh niên trẻ được đào tạo chu đáo ở các nước về. Việc đi thẳng vào công nghệ hiện đại đã rất thành công mà không có lãng phí đáng kể nào.

Đối với các trang thiết bị kỹ thuật cũ đã mua về, ngành cũng sử dụng vào công ích xã hội, gửi tặng cho Cuba trong lúc họ khó khăn. Cuba cũng được sử dụng thiết bị mới. Bây giờ họ cũng đã nhận thấy đi vào kỹ thuật mới rất là thuận lợi. Nhưng vào thời kỳ đó, đồng chí Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Cuba đã không đồng tình với quan điểm của ta lắm. "Tiền đâu mà mua?" Đồng chí có nói với đồng chí Đặng Văn Thân: "Còn anh còn tôi, xem kết quả như thế nào?" Nhưng chỉ sau thời gian ngắn, bạn đã đánh giá là ta thành công, và từ đó Cuba - Việt Nam có sự hợp tác hỗ trợ lẫn nhau.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa anh Phạm Long Trận, thời điểm mà ngành BCVT đang bước vào giai đoạn mà dư luận đánh giá là "tăng tốc, bừng bừng khí thế, đổi mới công nghệ, đi lên hiện đại" thì anh đang giữ vai trò gì trong ngành? Anh có những hồi tưởng gì về giai đoạn này không?

TGĐ Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam Phạm Long Trận.

- TGĐ VNPT Phạm Long Trận: Trong thời gian ngành bắt đầu sự nghiệp tăng tốc, phát triển trong giai đoạn I từ năm 1986 đến năm 1994 và từ 1994 đến 2000, thì  tôi là một kỹ sư phụ trách kỹ thuật và lắp đặt thiết bị máy móc. Tôi nhớ lúc đó, chúng tôi đã bắt đầu lắp một tổng đài analog ATZ 65 của Pháp rất mới. Nhưng vừa lắp xong, chưa kiểm tra, chuẩn bị chạy thử thì đã có lệnh dỡ đi để lắp thiết bị mới khác theo công nghệ mới.

Tôi nghĩ đây là một quyết định rất là táo bạo, rất đúng đắn. Nhân đây, tôi cũng muốn bổ sung hai ý mà Bộ trưởng đã đề cập: Phải nói đúng ra rằng chúng ta làm nên những chuyện thần kỳ, vì chúng ta là ngành Bưu điện, ra đời cùng với đất nước và có một lịch sử 60 năm với những hy sinh, phấn đấu, cống hiến của bao nhiêu vạn người làm công tác bưu điện, đã đúc kết nên một truyền thống, một khí thế và một tinh thần của người bưu điện. Chính vì thế, nên chúng ta mới làm được những chuyện như thế.

Cũng một ý nữa tôi xin bổ sung thêm. Nhà nước cũng đã rất ủng hộ khi cho chúng ta một cơ chế tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm. Tôi nghĩ đó là hai điểm mấu chốt để ngành Bưu điện Việt Nam làm nên thành công.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng lúc đó, thường không mấy ai có được suy nghĩ quyết đoán như vậy, vì đa phần là chờ Nhà nước mà không  ai dám nghĩ tới việc tự đầu tư?

- TGĐ VNPT Phạm Long Trận: Tôi muốn nhấn mạnh rằng truyền thống 60 năm đã đúc kết nên một con người Bưu điện như thế. Thêm nữa là sự ủng hộ của Nhà nước trong cơ chế cho tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm, nên chúng ta mới làm được việc đó.

Một điểm nữa, tôi cho là yếu tố khách quan, nhưng cũng là điều kiện thuận lợi để chúng ta làm. Tôi nhớ rằng thời năm 1986, mật độ điện thoại của Việt Nam gần như thấp nhất thế giới, chỉ có 0,15 máy/100 dân. Đây là lợi thế của người đi sau. Cơ sở hạ tầng thông tin bưu điện lúc ấy của chúng ta quá nhỏ bé, nên mới có thể mạnh dạn bỏ đi thay mới được. Những nước tiên tiến, họ cũng có thừa công nghệ, thừa khả năng về tài chính nhưng vì mạng của họ quá lớn, để thay đổi rất khó.

Nhưng chúng ta có thể sẵn sàng bỏ hẳn công nghệ cũ đi vì hệ thống nhỏ. Mật độ máy rất thấp như thế thì chúng ra có thể dễ quyết định bỏ đi được.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng trong điều kiện đất nước ta lúc đó còn đang khó khăn, còn nghèo, việc bỏ đi như thế có sợ bị mang tiếng là phí phạm không?

- TGĐ VNPT Phạm Long Trận: Đúng vậy, nếu lúc đó mật độ của chúng ra là 5 máy hay 10 máy/100 dân thì chúng ta cũng sẽ phải cân nhắc suy nghĩ kỹ hơn là chỉ có 0,15 máy/100 dân.

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Cũng đã có những lời phê phán nhau quyết liệt lúc đó, nhưng tính đi tính lại thì chi phí đưa vào vẫn lợi hơn tổng tài sản analog. Nên vì thế chúng ta quyết định mất nhiều cái rất nhỏ để được cái rất lớn.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhưng cũng có nhiều ngành khác trong bối cảnh như vậy. Họ cũng có khả năng bỏ đi những cái rất nhỏ để được cái rất lớn nhưng lại không quyết định như vậy. Ngành BCVT đã rất quyết đoán. Có lẽ do vậy, nhiều bạn đọc Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh... đã bày tỏ với chúng ta sự cảm thông và trân trọng. Rất nhiều bạn đọc đã gửi đến cho VietNamNet những nhận định, những đánh giá về sự thần kỳ, phát triển nhanh của ngành BCVT. Họ ghi nhận đây là một quyết định sáng suốt, một chiến lược đúng đắn. Trong kinh doanh cũng như trong quân sự,chiến lược đúng. Nhưng giá trị của chúng ta ở đây, như Bộ trưởng và anh Trận nói, đó là giá trị mà chúng ta đã đấu tranh mạnh mẽ, dũng cảm, chọn cho được chiến lược đúng, đi thẳng vào hiện đại.

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Đúng như anh Trận nói, tôi cho rằng đó là truyền thống. Bởi lúc này không chỉ là sáng tạo, mà còn phải hết sức dũng cảm. Có thể nói, để được Đảng và Chính phủ ủng hộ thì cũng phải dũng cảm nhận với Đảng và Chính phủ là dứt khoát chúng tôi sẽ thành công. Tự đứng ra nhận trách nhiệm của mình đối với đất nước.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vâng, thưa anh Phan Hoàng Đức, hình như trong giai đoạn đó, anh đang ở Bưu điện Khánh Hòa. Tôi nhớ năm 1990 anh mới được bổ nhiệm là Phó giám đốc Bưu điện Khánh Hòa. Thời kỳ đó, Khánh Hòa cũng là Bưu điện tương đối điển hình của ngành, của Tổng công ty. Anh có hồi tưởng gì và có những câu chuyện gì đáng nhớ trong cuộc đời của mình?

- Chủ tịch Công đoàn Bưu điện Việt Nam Phan Hoàng Đức.

- Chủ tịch Công đoàn Bưu điện Phan Hoàng Đức: Tôi xin bổ sung thêm thế này: Chúng tôi, những người lao động, cũng nhận thức được đó là thời điểm chuyển mình rất lớn đối với đất nước. Đại hội 6 của Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới rất đúng đắn. Đó cũng là cơ sở để các ngành, đặc biệt là ngành BCVT với truyền thống đổi mới sáng tạo, đã thể hiện hết được mình trong giai đoạn đổi mới của đất nước này.

Chúng tôi cũng thấy rằng bản chất sự phát triển của ngành trong giai đoạn này đó là tính đột phá, như đồng chí Bộ trưởng đã nêu, đó là đột phá thẳng vào công nghệ hiện đại. Đây là một quyết định hết sức dũng cảm, hết sức sáng tạo và hết sức phù hợp. Và đây chính là một trong bước đột phá để tạo nên sự phát triển của ngành BCVT Việt Nam chúng ta ngày hôm nay.

Như anh Tuấn đã nêu, lúc đó tôi đang phụ trách công tác kỹ thuật của Bưu điện tỉnh Khánh Hòa. Tôi cũng có một kỷ niệm về vấn đề chuyển đổi giữa công nghệ cũ và công nghệ mới. Thực sự hồi đó chúng tôi nhận được chủ trương là chuẩn bị phát triển một hệ thống tổng đài analog, tức là một hệ thống tổng đài ATZ nhập từ Cộng hòa Dân chủ Đức. Nhưng đồng thời trong giai đoạn đó cũng xuất hiện một số đơn vị, như bưu điện thành phố Hồ Chí Minh chẳng hạn, đang sử dụng một số tổng đài số nhỏ ATM. Mặc dù trong ngành lúc đó vẫn còn chủ trương đầu tư cho các tỉnh chậm hơn so với cho các trung tâm, nhưng khi đặt vấn đề giữa công nghệ cũ và công nghệ số thì lực lượng kỹ thuật chúng tôi cũng như các đồng chí lãnh đạo tỉnh lúc đó cũng bàn cãi rất nhiều.

Sau đó chúng tôi cũng thấy rằng quyết định đột phá của lãnh đạo ngành là rất đúng đắn. Đi thẳng vào công nghệ số, có dũng cảm đi vào được hay không? Đối với lực lượng kỹ thuật chúng tôi ở Khánh Hòa lúc đó cũng chưa đảm bảo chắc chắn được. Vì lúc đó kỹ thuật số là công nghệ rất mới. Nhưng đến giờ nhìn lại, một kỷ niệm đáng nhớ là một đơn vị nhỏ như Khánh Hòa đã hưởng ứng lựa chọn đầy sáng tạo của lãnh đạo ngành là quyết định đột phá. Đó là quyết định đưa tổng đài số vào.

Sau này với chủ trương như vậy, Khánh Hòa cũng là một trong đơn vị sớm được hòa mạng số đầu tiên. Và trên cơ sở đấy cũng tạo nên một thế trận vững chắc như Bộ trưởng đã nói tạo nên được cả mạng thông tin số rất là nhanh chóng. Thì đây chúng tôi cũng muốn khẳng định lại đây là lối đi sáng tạo đầy tính thuyết phục và rất là mạnh mẽ, dũng cảm và đã tạo nên được sức mạnh và  bước đi sau này cho ngành của chúng ta.

Vượt qua chính mình

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Chúng tôi được biết anh Đức cũng là một kỹ sư viễn thông có uy tín và có nhiều công trình sáng tạo từ những ngày còn sử dụng công nghệ cũ. Khi công nghệ mới bắt đầu được thay thế trong ngành bưu chính viễn thông, anh có ngại ngần trước việc tiếp cận nó, hay có lo lắng trước nguy cơ bị tụt hậu vì công nghệ mới hay không?

- Chủ tịch Công đoàn Bưu điện Phan Hoàng Đức: Trước đây, đúng là chúng tôi hoàn toàn được đào tạo trên nền tảng công nghệ cũ, công nghệ Analog, nên khi công nghệ số được đưa vào trong ngành viễn thông, quả là rất lo lắng. Nhưng với quyết tâm của lãnh đạo ngành, như bộ trưởng Đỗ Trung Tá vừa nói, chúng tôi phải nỗ lực tự đào tạo lại để tiếp cận với công nghệ mới. Có quyết tâm của lãnh đạo, anh em càng vững tin, và thực tế chứng minh như mọi người đã thấy: Cán bộ công nhân viên của ta đã tiếp cận rất nhanh! Hoàn toàn làm chủ hệ thống thiết bị mới!

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bây giờ chúng ta đã có công nghệ hiện đại với hệ thống tổng đài truyền mạch, số và hệ thống truyền dẫn, cáp quang... Nhưng được biết những km cáp quang đầu tiên đã được lắp đặt rất công phu và nhiều gian nan. Bộ trưởng có thể kể về km cáp quang đầu tiên được lắp đặt ở Việt Nam như thế nào không?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Cáp quang đối với VN vào thời điểm đó là một sản phẩm còn bị cấm vận về kinh tế (sản phẩm công nghệ cao) có tiền cũng không mua được. Chúng tôi đã tính đến chuyện lực lượng nghiên cứu phải đi trước một bước. Lúc đó viện KHKT Bưu Điện đã phối hợp với Bộ Nội vụ (Bộ Công an ngày nay), tìm mua các sợi thuỷ tinh, sau đó nhờ Nhà máy vật liệu Bưu điện nghiên cứu để bọc sợi cáp lại đưa vào khai thác thử. Bản thân tôi đã rất khâm phục một số anh em, khi đó được đưa đi học đồng bộ ở Đức về chế tạo cáp. Khi chúng tôi đưa ra các thông số kỹ thuật cần thiết, các anh đã bọc được cáp và cho ra đời những km cáp quang đầu tiên, cho vào phòng thí nghiệm thấy kết quả rất khả quan.

 

Nhưng khi đó lại nảy sinh vấn đề thiếu thiết bị, thế là ngành lại quyết định chế tạo thiết bị 30 kênh truyền dẫn (mà sau này chúng ta quen gọi là một luồng E1) để chạy trên cáp quang mới này. Phải thu gom, nhờ người đi nước ngoài mua từng thiết bị, mãi mới chế tạo được hai chiếc đầu - thiết bị PCM 30 kênh. Đấu nối thử thành công tuyến đầu tiên từ C2 (ở Huỳnh Thúc Kháng) đến Bờ Hồ, nối với tổng đài của Pháp... Chính từ những thành công ban đầu đó mà sau này chúng ta có hai nhà máy bọc cáp quang, đến nay có nhiều sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài. Các thiết bị sau này được chế tạo hợp tác với các nước, có dung lượng rất lớn, từ 2 Mb (Megabit) nay đã lên đến hơn 20 ngàn Mb. Từ những bước tự lực ban đầu, chúng ta đã nâng cao được trình độ hiểu biết của cán bộ, tạo cơ sở khi bước vào hiện đại, nắm bắt nhanh các công nghệ mới.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Khi bước đầu đưa cáp quang vào chúng ta có gặp phải khó khăn do nhận thức hoặc về con người không, thưa Bộ trưởng?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Thời điểm vào khoảng năm 1986, 1987, lúc đó chúng tôi có được sự ủng hộ rất nhiệt tình của đồng chí Lê Minh Hương (sau này là Bộ trưởng Bộ CA), lúc đó còn là Cục trưởng (tôi khi đó là Vụ trưởng vụ khoa học kỹ thuật bưu điện). Cả hai đều rất tâm huyết với công việc này. Thậm chí khi đó, có những cán bộ mang cáp quang mang trên người từ nước ngoài về, sẵn sàng xả thân hi sinh nếu bị vướng vào luật cấm vận quốc tế.

Vì thế, chúng tôi quý trọng từng cm dây cáp, cảm thấy trong đó chứa đựng những tình cảm rất thiêng liêng đối với đất nước.

Khó khăn lớn nhất lúc ấy lại là việc mọi người đều KHÔNG TIN, cho rằng chúng tôi không thể làm được. Thế nên cán bộ kỹ thuật lại phải đi thuyết phục anh em, làm tất cả từ A đến Z. Rất may ở bưu điện Hà Nội lúc đó có một số đồng chí ủng hộ và cổ vũ chúng tôi "Cứ làm thử!" Và chúng tôi đã làm được thật!

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Xin được hỏi Hiệp Sĩ CNTT của năm nay, bạn Huỳnh Ngọc Ẩn: Là một bạn trẻ công tác trong mảng kỹ thuật của bưu điện Đồng Tháp, khi nghe câu chuyện vừa rồi của những bậc cha anh đi trước, bạn có cảm nghĩ gì?

Hiệp sĩ CNTT 2005 Huỳnh Ngọc Ẩn, cán bộ Bưu điện tỉnh Đồng Tháp.

- Hiệp sĩ CNTT Huỳnh Ngọc Ẩn: Vào thời điểm đó, tôi còn ngồi trên ghế nhà trường, dù chỉ được nghe kể lại cũng đã thấy rất khâm phục những người đi trước. Những quyết định của các chú các bác vào thời điểm ấy là vô cùng dũng cảm và hết sức đúng đắn. Nhìn lại hiện tại, thực tế càng chứng minh cho sự đúng đắn đó.

Là đội ngũ cán bộ trẻ, chúng tôi sẽ cố gắng học tập phấn đấu để tiếp nhận truyền thống và những tiền đề to lớn mà các chú, các bác đã để lại.

Cạnh tranh

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vâng, "câu chuyện thần kỳ" của  BCVT Việt Nam không chỉ có ý nghĩa trong ngành, mà còn là một  bài học  giá trị trong công cuộc đổi mới của đất nước những năm gần đây. Còn đối với hiện tại, bài học ấy có là hành trang cho ngành Bưu điện trong quá trình hội nhập nữa không, thưa Bộ trưởng?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Đến nay chúng ta đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận, song nếu nhìn ra thế giới và những xu hướng phát triển CNTT-VT trong tương lai, Việt Nam vẫn chưa được gọi là phát triển nhanh trong lĩnh vực này.

Tôi cho rằng trong thời gian tới, chúng ta tiếp tục phải đổi mới, tiếp tục tăng tốc, tiếp tục thay đổi tư duy trong việc mở cửa cạnh tranh kinh doanh các dịch vụ Bưu chính Viễn thông và CNTT. Hơn nữa, phải làm sao huy động được toàn bộ nhân lực tài lực để xây dựng mạng lưới viễn thông trong thời gian tới. Mở ra nhiều dịch vụ đáp ứng không chỉ người dân ở thành thị, mà cả ở nông thôn và vùng cao. Đó sẽ là lời cám ơn chân thành của chúng ta đối với xã hội, đối với quần chúng nhân dân đã ủng hộ ngành Bưu điện trong suốt 60 năm qua, những người đã che chở chúng tôi trong thời kỳ chiến tranh, gian khó và nay là khách hàng tích cực, nguồn động lực thôi thúc chúng tôi trong thời kỳ đổi mới.

Khi chúng ta tiến vào hội nhập, cũng cần phải tiến hành thay đổi nhận thức về vai trò của CNTT. Làm sao cho tất cả mọi người, từ cấp trên tới cấp dưới, từ mỗi người dân, từ xã hội, đều là những người được thừa hưởng, nhưng cũng là người tham gia tích cực vào xây dựng hạ tầng CNTT và truyền thông trong thời gian tới. Chúng ta phải làm sao để khoảng cách công nghệ giữa nông thôn và thành thị càng ngày càng gần. Đấy chính là sự thể hiện rằng chúng ta phát triển một nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật về phát triển đồng đều của lĩnh vực BC-VT rộng khắp, tới cả các vùng nông thôn vùng sâu vùng xa, trong thời gian qua cũng như trong tương lai.

Bộ BCVT VN sẽ tăng cường các khuôn khổ pháp lý để tạo điều kiện cho một thị trường cởi mở, cạnh tranh cả trong và ngoài nước, có sự đóng góp nguồn vốn và trí lực nhân dân trong đó, để xây dựng một cơ sở hạ tầng CNTT và viễn thông rộng rãi. Song song với nó là việc tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mới nhanh chóng trưởng thành. Để đến khi các dịch vụ chiếm khoảng 30% thị phần của doanh nghiệp chủ lực (VNPT), chúng ta sẽ cho các doanh nghiệp tự định đoạt giá cước cũng như phong cách phục vụ khách hàng, tạo ra một không khí cạnh tranh sôi động hơn nữa.

Ngoài ra chúng ta phải có một quyết tâm cao hơn nữa trong việc đưa Internet, CNTT ứng dụng vào thực tế phục vụ cộng đồng. Thể hiện được Internet mang đến tri thức nhân loại cho VN một cách nhanh nhất. Người Việt Nam sẽ sử dụng các công nghệ này để có được các thông tin bổ ích nhất.

Do đó, sẽ phải hình thành một nền công nghiệp nội dung. Nhân tiện đây, tôi cũng chúc mừng VASC, với công nghệ truyền thông mới, đã làm rất tốt vào việc cung cấp nội dung, tham gia vào việc hình thành nền công nghiệp nội dung. Trong xã hội thông tin tương lai, công nghiệp nội dung sẽ là ngành mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Có như vậy, mới thể hiện chúng ta đã đi vào xu thế hội nhập thắng lợi.

Với thị trường của chúng ta hiện nay, ngay trong nước cũng vẫn có thể tìm được thị trường, nếu chúng ta có sản phẩm. Nhưng nếu không có sản phẩm, không thúc đẩy kinh tế, công nghiệp phát triển, thì kể cả ngồi nhà, sản phẩm của nước ngoài vẫn ồ ạt nhảy vào thị trường của chúng ta, nhất là khi Việt Nam tham gia thương mại điện tử với thế giới.

Chính vì thế, sắp tới, các vấn đề ứng dụng Chính phủ điện tử, thương mại điện tử, dùng CNTT để đào tạo từ xa, ứng dụng vào các dịch vụ như y tế, sẽ giúp xã hội chúng ta rất gần gũi với máy tính, mạng Internet, với nhiều dịch vụ, nội dung thông tin. Điều đó giúp mỗi người dân, mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp thấy được lợi ích của CNTT trong năng suất lao động, nâng cao trình độ, hiệu quả hoạt động của mình. CNTT sẽ là một trong những ngành đóng góp rất lớn cho GDP của đất nước trong tương lai.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vâng, câu trả lời của Bộ trưởng đồng thời đã trả lời rất nhiều thắc mắc của bạn đọc về định hướng phát triển của ngành bưu chính viễn thông trong tương lai gần.

Xin gửi đến Bộ trưởng câu hỏi của bạn Huyền Chi 30 tuổi, Hà Nội: "Ngành bưu chính viễn thông sẽ làm gì để thực sự không bị tụt hậu trong giai đoạn tự do cạnh tranh hội nhập và đặc biệt - sắp tham gia WTO"...

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Xin nói thêm, chúng ta quyết tâm, và cũng yên tâm, là có cơ sở! Tính về tốc độ phát triển điện thoại chẳng hạn, chúng ta hiện đang nằm trong bốn nước đầu tiên của top 10 nước có tốc độ phát triển điện thoại nhanh nhất. Nếu nói về tốc độ phát triển CNTT, chúng ta cũng đang nằm 1 trong 6 nước dẫn đầu top 10 trên thế giới. Đó là một tốc độ phát triển rất tốt. Chúng tôi dự tính đến năm 2020 chúng ta sẽ đạt đến trình độ ngang hàng các nước phát triển như Thái Lan - Hàn Quốc... và đạt mức trung bình của các nước G7!

Nhiều người sẽ nói: "Việt Nam phát triển nhanh, thì nhiều nước khác họ cũng phát triển nhanh?" Nhưng chúng tôi đang lấy mức bão hoà của các nước phát triển hiện nay để phấn đấu. Và tính rằng đến năm 2016 chúng ta sẽ đạt được một số chỉ tiêu, đến năm 2020, BCVT VN sẽ hoàn toàn đủ khả năng đạt đến trình độ của các nước phát triển. Như vậy, mới chứng tỏ ngành bưu chính viễn thông là một ngành cơ sở, đi trước một bước để tạo điều kiện cho các ngành kinh tế xã hội khác phát triển.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Đến nay, VNPT là một doanh nghiệp chủ lực, đã có những bước phát triển mạnh mẽ, nhưng hiện tại vẫn còn những khách hàng than phiền về tình trạng " cửa quyền, quan liêu" với khách hàng!  Có một bạn đọc gửi câu hỏi thế nay: "Vậy cho đến nay VNPT đã có những biện pháp gì trước tình trạng đó và các vị lãnh đạo của ngành đã bao giờ đi thị sát tình hình cụ thể qua việc tiếp xúc với những người sử dụng cuối cùng dịch vụ của mình hay chưa?"

- Tổng GĐ VNPT Phạm Long Trận: Đây là một vấn đề gay cấn, không chỉ cho riêng VNPT mà cho tất cả các nhà cung cấp dịch vụ, không chỉ trong lĩnh vực BC - VT mà cả trong các lĩnh vực khác. Bởi đây mà mối quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ, giữa người bán và người mua. Vấn đề này càng nổi lên rõ hơn trong cơ chế quản lý kinh tế thị trường. Chúng tôi nhận thức đây là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Cho nên ngay từ những năm 90, chúng tôi đã lập một ban riêng - ban giá cước tiếp thị để chuyên lo chăm sóc khách hàng. Từ năm 2002 trở đi, tất cả các bưu điện tỉnh cũng đã lập các phòng chăm sóc khách hàng. Từ đó đến nay, chúng tôi liên tục có những năm đặt mục tiêu "thi đua vì khách hàng", cải tiến việc chăm sóc khách hàng, quảng cáo, khuyến mãi để nâng cao chất lượng phục vụ.

Song cũng phải thừa nhận, với VNPT, công việc này vẫn còn nhiều hạn chế, trước năm 1995 khi chưa mở cửa, VNPT là độc quyền, nên vẫn còn mang theo những phong thái làm việc khi đó, chuyển sang môi trường cạnh tranh buộc phải không ngừng đổi mới hoàn toàn cách tư duy, cách làm việc. Chúng tôi đã cố gắng thực hiện điều này rất nhiều, mặc dù đã có sự biến đổi đáng kể, song cho đến giờ phút này vẫn có một số Công nhân viên, giao dịch viên có phong cách phục vụ khách hàng chưa được tốt. Tổng công ty sẽ có nhiều cách thức để vừa đào tạo lại, vừa giáo dục họ có nhận thức, thái độ làm việc đúng đắn hơn. Bởi hiện nay, đây là một trong những yếu tố sống còn, nếu VNPT không làm được điều này, thì khi môi trường cạnh tranh hội nhập phát triển hơn, với các doanh nghiệp viễn thông mới rất mạnh trong nước, và đặc biệt là các doanh nghiệp lớn nước ngoài nhảy vào thị trường BCVT Việt Nam, thì rõ ràng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển và tồn tại của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.

- Chủ tịch Công đoàn Bưu điện Phan Hoàng Đức: Chúng tôi có những sự quan tâm rất lớn trong việc giáo dục đội ngũ người lao động. Tuy nhiên như các bạn cũng đã đánh giá, vẫn còn những hiện tượng cửa quyền, chúng tôi thừa nhận đây là một trong những vấn đề còn tồn tại của VNPT.

Tuy nhiên đặt trong hoàn cảnh hiện tại cả nước, chúng ta mới chuyển đổi qua nền kinh tế thị trường,  thật sự chưa quen phong cách phục vụ thị trường, đặc biệt với đội ngũ lao động ngành lâu năm đã hoạt động từ thời bao cấp... Công đoàn chúng tôi hết sức đánh giá cao nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền đổi mới tư duy người lao động. Những phong trào như "Rèn luyện kỹ năng người lao động", thi "Giao dịch viên giỏi", "tiếp thị viên giỏi", thi các "Giám đốc giỏi, cán bộ gương mẫu ... đã thực sự tạo ra những sự chuyển biến đáng kể trong nhận thức của người lao động ngành BC-VT. Đến nay, nếu so lại với thời kỳ đầu đổi mới, khi mới bước vào cơ chế thị trường, thì sự chuyển biến ấy là vô cùng lớn.Nhưng để đáp ứng được những nhu cầu hiện tại, chúng ta vẫn còn phải cố gắng rất nhiều, đúng như đồng chí Tổng giám đốc đã nêu. Đây cũng sẽ là một trong những trách nhiệm lớn của lãnh đạo Tổng công ty cũng như Công đoàn Bưu điện Việt Nam để bảo đảm sự sống còn của doanh nghiệp. Vấn đề đổi mới nhận thức, phong cách phục vụ để đáp ứng được yêu cầu của thị trường, phục vụ tốt cho khách hàng sẽ là những phương châm hàng đầu trong thời gian sắp tới mà tổ chức Công đoàn chúng tôi có trách nhiệm phối hợp với lãnh đạo Tổng công ty để làm thật tốt.

"Cửa quyền quan liêu" và câu chuyện "Tá hay tướng gì cũng thế"

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Xin anh Đức cho đánh giá về những năm trọng điểm "hướng về khách hàng" của ngành Bưu điện, như năm 2002 chẳng hạn, chúng ta có tổng kết, đánh giá không và kết quả có được như mong muốn không?

- Chủ tịch Công đoàn Bưu điện Phan Hoàng Đức: Năm 2002 khi chúng tôi đưa ra một số hoạt động "Hướng về khách hàng" đã thu hút được rất nhiều sự ủng hộ, cả từ phía cơ quan và khách hàng, Bưu điện Hà Nội là một ví dụ, họ đưa ra một hệ thống quy chuẩn rất rõ ràng về thái độ phục vụ của giao dịch viên, về không gian giao dịch, về thời gian thời lượng tối thiểu... hết sức chi tiết. Đặc biệt có loại hình "khách hàng bí mật" để đánh giá chất lượng phục vụ của các giao dịch viên. Ai tốt thì được biểu dương, ai làm không tốt sẽ có các mức xử lí thích đáng... Vì vậy từ năm 2002 cho đến nay các phong trào hướng đến khách hàng đã có tác dụng rất rõ nét và được ủng hộ nhiệt tình. Qua thống kê của tổ chức công đoàn, 80% các đơn vị đều hưởng ứng phong trào này. Kết quả là rất nhiều giao dịch viên, công nhân giấy máy được khen thưởng. Chúng tôi sẽ tiếp tục có nhiều hoạt động nhằm ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ để các bạn khi sử dụng dịch vụ của chúng tôi sẽ cảm thấy hài lòng hơn.

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Tôi xin bổ sung một chút, có một kỷ niệm rất đáng nhớ, vào năm 92, 93 ở Đồng Nai có phát động phong trào "Bưu cục triệu phú", một bưu cục mấy chục người cố gắng để doanh thu một tháng được hơn một triệu, thậm chí lúc đầu một năm, nghĩa là giai đoạn đó hết sức khó khăn. Có những điểm bưu cục xã chỉ kinh doanh dịch vụ viễn thông, còn bưu chính hay đọc sách báo đều miễn phí, nên có những điểm một tháng chỉ thu được vài chục ngàn, không đủ nuôi giao dịch viên.Vậy mà cả nước đã hưởng ứng và chỉ trong thời gian ngắn không đầy hai năm các bưu cục đã đạt hơn một triệu hết, sau đó còn có phong trào "Bưu cục Tỉ phú". Cho đến nay, gần 7500 điểm bưu điện bưu tá xã đã đi vào hoạt động trên tổng số 8000 điểm theo kế hoạch. Mỗi tháng mỗi điểm thu hơn 1 triệu đồng. Điều đó chứng tỏ chất lượng dịch vụ đã tốt lên và việc giao tiếp, phục vụ khách hàng đã tốt hơn trước rất nhiều. Mặc dù trước đó thiết bị vẫn vậy nhưng không sinh ra tiền như hiện nay.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn:  Trong ngành có nhiều người kể một câu chuyện vui:  Bộ trưởng từng gọi điện kiểm tra chất lượng phục vụ khách hàng của dịch vụ 108. Khi nghe người giao dịch viên có thái độ cửa quyền, Bộ trưởng đã nói "Tôi là Đỗ Trung Tá đây!" - Nhận được câu trả lời: " Tá hay tướng gì cũng thế!"... Thực tế là có chuyện ấy không và vụ việc sau đó được xử lí thế nào?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Ngay cả bây giờ, bản thân tôi đã rất nhiều lần đóng vai "khách hàng bí mật", đi xe máy đến các bưu điện, hay gọi thử đến các dịch vụ 1080... (từ đầu năm đến nay tôi đã đi được vài lần rồi) và không phải không phát hiện những sai sót, thái độ không đúng mực trong việc phục vụ khách hàng. Nhất là các bạn trẻ mới vào ngành. Chính tôi sau đó đã có những đề nghị xử lí kịp thời. Cụ thể như trong câu chuyện trên, tôi đã phải gọi điện cho giám đốc để tìm ra giao dịch viên trả lời vào thời gian đó để xử lí. Tôi mà còn bị trả lời như vậy, thì với khách hàng sẽ ra sao? Với vấn đề này chúng tôi rất nghiêm túc, bản thân tôi đã từng xử lí một số trường hợp đưa ra khỏi bưu cục rồi! Mặc dù trong lòng rất đau xót, vì nhiều lúc rơi vào chính người quen, người nhà hay bạn bè mình... Song vẫn phải kiên quyết bởi chúng tôi đánh giá chất lượng phục vụ khách hàng luôn là yếu tố sống còn trong giai đoạn hội nhập và cạnh tranh!

Giá cước - sao chưa giảm?

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bây giờ tôi muốn đề cập tới một vấn đề khá “nhạy cảm” mà nhiều bạn đọc quan tâm, đó là giá cước viễn thông, đặc biệt là giá cước điện thoại di động. Nhiều khách hàng đề cập thẳng" Cước viễn thông của VNPT vẫn còn cao và chúng tôi được biết qua báo chí là VNPT có trình Bộ xin giảm , nhưng vẫn chưa được phép".

Vậy, xin Bộ trưởng có thể trả lời: " Sẽ có giảm hay không. Liệu khi nào Bộ có thể phê duyệt cho VNPT?"

Còn riêng đối với VNPT, anh Trận, các anh có những khó khăn gì trong kinh doanh khi không được giảm cước ĐTDĐ? Năng lực cạnh tranh của VinaPhone và MobiFone đối với vấn đề này như thế nào?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Theo luật cạnh tranh thì các DN chiếm thị phần khống chế như VNPT đương nhiên bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn so với các DN mới ra. Ví dụ Công ty thông tin di động S-Fone, công ty Viettel Mobile (là những DN mới)  thì không bị Bộ kiểm tra hay khống chế gì về chuyện giá cước cả.

Riêng VinaPhone và MobiFone (thuộc VNPT) là các công ty lớn, lâu năm, có lượng khách hàng rất lớn so với các DN khác mới ra, cũng phải tạo điều kiện một chút cho họ phát triển.

nhiều nước khác, các DN cùng hoạt động trong một lĩnh vực đa số đều đời cùng thời điểm và cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng, không có điều kiện gì cả. Còn đối với nước ta có chuyện “người mới người cũ”, vì thế Bộ cũng có những can thiệp về giá cước đối với VNPT.

Trong pháp lệnh BC - VT quy định, khi nào thị phần của các DN mới chiếm 30 đến 50%, thì Bộ BCVT mới nới lỏng kiểm soát với DN có thị phần khống chế. Như vậy, năm 2005 này, nếu các công ty SPT (S-Fone), Viettel phát triển nhanh, nếu tổng số thuê bao ĐTDĐ bằng khoảng 1/3 của VNPT, thì Bộ sẽ phải cân nhắc tới việc nới lỏng kiểm soát đối với VNPT.

Cũng nói thêm là: Hiện tại, Bộ không khuyến khích các DN cạnh tranh theo kiểu giá cước, vì cạnh tranh lúc này cũng phải tính đến tương lai. Như ở Trung Quốc, ban đầu cũng ra đời  nhiều DN viễn thông lắm, nhưng cuối cùng cũng phải dồn lại, ít đi. Hay Hàn Quốc lúc đầu có 5 DN kinh doanh về di động, hiện tại chỉ còn 3. Lo lắng của Bộ là những ban hành văn bản pháp lý của mình không làm ảnh hưởng đến hoạt động, nhất là các thua lỗ của DN.

Đối với VNPT, nếu so mức cước với các DN mới hiện tại cũng đã là khá cách xa, tức là mức giá cước của VNPT hiện chưa hấp dẫn so với cước của các DN mới khác. Bây giờ (hướng về phía Tổng giám đốc VNPT Phạm Long Trận), Bộ muốn đề nghị VNPT cân nhắc thêm một chút nữa về yếu tố sẵn sàng phục vụ để giải trình.

Đúng là Chính phủ cũng có nhắc nhở VNPT về vấn đề cước. Dư luận xã hội đôi lúc không hiểu rõ, có hỏi: “VNPT muốn giảm cước mà Bộ lại hãm lại, vậy có phải Bộ muốn được nhiều tiền không?” (Cười). Về vấn đề này, không phải Bộ muốn nhiều tiền!. Nói về cước hiện nay thì VNPT vẫn là DN đóng góp lớn cho đất nước, nên không chỉ giải quyết vấn đề lợi ích người tiêu dùng mà trong đó phải cân bằng có lợi ích của Nhà nước nữa. Đương nhiên chính sách của Nhà nước là làm thế nào để không ảnh hưởng đến lợi ích của DN. Bài toán này không đơn giản!.

Đứng trên phương diện tổng thể, nếu chính sách Nhà nước mà để DN A khen, DN B kêu, thì có nghĩa là có sự thiệt thòi đối với một DN. Nếu chính sách Nhà nước mà hai anh (DN A và DN B) cùng phấn khởi thì... nhà nước thiệt. Vậy, chính sách của nhà nước làm thế nào để cả hai DN đang cạnh tranh đều khó chịu một tí thì có lẽ tốt hơn!

Bây giờ chúng tôi chỉ đề nghị thế này: Vừa rồi, VNPT đã chậm về đầu tư - do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vậy, trước khi xét duyệt đến việc giảm giá cho VNPT, Bộ phải làm hai việc: thứ nhất là thúc đẩy cho các DN mới tăng thị phần lên, thứ hai là yêu cầu VNPT đầu tư mạnh cho mạng lưới. Như vậy, để cho khách hàng vào ồ ạt cũng không bị nghẽn mạng, để làm sao họ tin lời tiếp thị, quảng cáo của VNPT. Tôi nghĩ đây là bài toán phức tạp, nhưng với VNPT là DN chấp hành rất nghiêm chỉnh các quy định, chúng tôi sẽ cùng VNPT tháo gỡ vấn đề này vì thị trường rất phát triển. Bộ cũng phải đảm bảo quyền lợi cho mấy triệu khách hàng của VNPT, 15 năm nay họ đã gắn bó với mạng này. Với Bộ, bao giờ chúng tôi cũng phải có tính tam giác, đó là: nhà nước - DN và khách hàng.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Ý kiến anh Trận thế nào ạ?

- Tổng GĐ VNPT Phạm Long Trận: Về phía VNPT là DN chủ lực trong lĩnh vực BC-VT, trách nhiệm của chúng tôi đầu tiên là tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước. Hai năm trước đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo VNPT dần dần giảm cước sao cho cước BC-VT của VN có thể bằng và thấp hơn các nước trong khu vực, nên VNPT đã xây dựng một lộ trình về giá, về phương thức tính cước. Nhưng ở thời điểm hiện nay, chúng tôi có một số đề nghị nhưng Bộ còn đang xem xét. Chúng tôi nghĩ đây là quyền của cơ quan quản lý nhà nước, như đồng chí Bộ trưởng nói là phải cân bằng giữa ba đỉnh của tam giác là nhà nước - DN và khách hàng. Nhưng có một điều thế này: xin lấy ví dụ ở Trung Quốc,  trong giai đoạn đầu, họ cũng có một môi trường cạnh tranh giữa những DN chủ lực (như ChinaTelecom) và các DN mới ra đời. Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc đã ngay từ đầu làm rõ 2 việc là Công ích và Kinh doanh trong các DN viễn thông của họ. (Hiện tại ở Việt Nam, nhiệm vụ công ích trong lĩnh vực BCVT vẫn hoàn toàn do VNPT đảm nhiệm, các DN mới chỉ có nhiệm vụ kinh doanh mà không phải lo tới nghĩa vụ công ích – VietnamNet).

Tôi nghĩ thế này, để VNPT bớt khó khăn trong môi trường cạnh tranh, mà cụ thể là cạnh tranh giá cước với các DN mới, trong thời gian tới, tôi hy vọng chúng ta sẽ làm sao phân rõ được 2 nhiệm vụ công ích và kinh doanh. Tất nhiên ở Trung Quốc, nhiệm vụ công ích là giao cho DN chủ lực ChinaTelecom, nhưng họ có phân chia rõ ràng chuyện này. Chỉ có như thế, những tổng công ty như chúng tôi, tổng công ty chủ lực đã có nhiều đóng góp với sự phát triển của đất nước mới đỡ bị thiệt thòi trong môi trường cạnh tranh như hiện nay.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Dư luận cho rằng, Bộ BC-VT và VNPT trước đây là quan hệ “ruột rà”, và Bộ vẫn còn ưu ái cho VNPT. Vậy, hôm nay có cả Bộ trưởng và Tổng Giám đốc VNPT, đề nghị cho biết có hay không mối quan hệ “ruột rà” giữa Bộ BC-VT và VNPT và Bộ BC -VT có thiên vị với VNPT không?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Câu hỏi đó, nếu anh Trận trả lời thì sẽ trả lời là: "Không, không có thiên vị, vì các anh ấy đang đề nghị một số việc nhưng chưa được Bộ đồng ý (cười).

Tôi xin nhắc đến chương trình buổi sáng của VTV có tên là “Tôi yêu Việt Nam”. Đến nước ngoài mà người ta còn nói được như vậy, nên chắc chắn chúng tôi cũng đối xử rất hỗ trợ với các DN. Nếu các DN mới không có được sự hỗ trợ của Bộ, theo tôi cũng sẽ không thể được như hiện nay. Phải nói rằng, rõ ràng là do có sự thúc đẩy về cơ sở hạ tầng như VNPT hiện nay thì các DN khác mới gia nhập thị trường nhanh được như vậy, cộng với các cơ chế về kinh tế nữa.

Năm 1986, ngành Bưu điện vẫn còn hô hào với cán bộ công nhân viên trong ngành rằng: “người Bưu điện phải sống bằng nghề Bưu điện”, vì lúc đó người ra khỏi ngành rất nhiều. Nhiều lúc chúng tôi cũng phải giải thích cho dư luận rằng, cái độc quyền của ngành Bưu điện là độc quyền tự nhiên. Lúc đó không có ai làm cả. Nhà nước phân cho thì chúng tôi phải làm. Sau này làm cố lên, có điều kiện hơn thì lại tạo điều kiện cho các DN mới tham gia. Như vậy cũng là quy luật đi lên của tất cả các nước. Còn quá trình nhanh chóng để cạnh tranh như thế nào là do tài của đất nước và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế của nước đó.

Nếu nói về VNPT, chúng tôi rất yêu quý chứ. Đây là nơi có đóng góp nhiều cho đất nước, rất nhiều cán bộ trưởng thành từ đó. Và có một điều,cũng chính những cán bộ trưởng thành từ VNPT lại đi làm việc cho các DN mới, trẻ khác. Chính tôi cũng giới thiệu rất nhiều người từ VNPT sang các công ty khác, mà tôi thì chỉ chọn người giỏi để giới thiệu.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bộ trưởng có thể nêu ví dụ cụ thể?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Ví dụ như có nhiều cán bộ công tác từ Vụ Tài chính Kế hoạch của VNPT chuyển sang làm các Giám đốc Trung tâm của Viettel, hoặc nhiều cán bộ được đào tạo chu đáo từ các công ty VTN, VTI  (đều là những công ty chủ lực của VNPT) cũng đã sang làm việc cho các DN mới. Thực tế, các DN mới cũng hết sức tôn trọng và thường xuyên có trao đổi với DN chủ lực. Dư luận đôi khi không thấy hết vấn đề, có một chút vướng mắc nhỏ nào đó, lại coi là chuyện lớn như: bao che, hay thiên vị như anh vừa nói. Chúng tôi chỉ mong muốn, VNPT phải giữ được vai trò chủ lực của mình.

“Bê bối” - có phải do bất cập của cơ chế DN?

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Có một vấn đề nữa không chỉ liên quan đến VNPT, đó là hiện nay, ở các tổng công ty của Nhà nước, động đến đâu là ở đó có vấn đề. Thời gian vừa qua, VNPT cũng có những"sai phạm khiến xã hội bất bình. Nhìn lại, có lẽ đây không chỉ là vấn đề của VNPT mà là của nhiều tổng công ty Nhà nước khác. Theo Bộ trưởng, đó là sự bất cập của mô hình DN Nhà nước ở nước ta hay vì lý do nào khác?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Chúng ta mới "tập tễnh" bước vào cơ chế thị trường. Việc hoàn thiện thể chế của cơ chế thị trường là vấn đề thời gian. Các DN nhà nước đã bước vào kinh tế thị trường trong thế yếu. Vốn cũng không rôm rả, trình độ nhân lực hạn chế, đó là vì chúng ta phải trải qua nhiều năm chiến tranh, con người có lòng yêu nước nhưng không được đào tạo nhiều. Có thể nói khó khăn của các DN nhà nước ta là như vậy. Sang cơ chế thị trường, lượng vốn ít, cơ chế của chúng ta không phải đã hoàn toàn phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh. Đối với riêng ngành BC-VT cũng vậy, có nhiều lĩnh vực chưa phù hợp. Cho nên, trong giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường mà những chuyện sai sót như thế xảy với các DN nhà nước cũng là điều chưa hài lòng. Một điều nữa cũng cần phải giải quyết tốt trong thời gian tới là vai trò sở hữu trong các DN nhà nước để sao cho tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm thật cao, chẳng hạn như đối với ông chủ tịch HĐQT công ty. Và như vậy sẽ có một người có quyền, gắn bó và chịu trách nhiệm với đồng vốn. Như vậy sẽ dần dần khiến các DN nhà nước đi vào hiệu quả.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Cổ phần hóa là một chủ trương lớn của nhà nước. Mới đây, khi chúng tôi thực hiện phỏng vấn đại sứ Trung Quốc Tề Kiến Quốc, ông cho rằng, để quản lý có hiệu quả các DN nhà nước, thì hãy cổ phần hoá DN Nhà nước và coi các công ty cổ phần là hình thức sở hữu chính của Nhà nước. Ý kiến Bộ trưởng thế nào? Với VNPT và các DN viễn thông, lộ trình cổ phần hóa diễn ra như thế nào?

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Bưu điện cũng là một trong những ngành đi nhanh trong lĩnh vực cổ phần hóa. Chúng tôi đi trước hết là đối với các DN ít nhạy cảm như công nghiệp, xây dựng. Sau này khi tham gia thị trường, phải cam kết với quốc tế thì chúng ta lại phải phát huy nội lực của chúng ta thông qua một số công ty cổ phần, liên doanh khai thác các dịch vụ BC-VT. Trọng cổ phần, thế của chúng ta mạnh tới đâu thì chúng ta chiếm phần vốn của chúng ta lớn đến đó. Nhưng chúng ta cũng phải tĩnh đến độ hấp dẫn với những người tham gia. Vì vậy cho đến nay đối với BC-VT, làm sao qua cổ phần nhưng vẫn đại diện cho quyền lợi người lao động. Và nó vẫn là phục vụ cho lợi ích quốc gia. Nó tạo ra động lực mới cho việc phát triển. Những nguyên tắc để đảm bảo cho cổ phần tháng lợi cũng là hết cứ rõ ràng, hết sức đúng với định hướng của Đảng và Nhà nước, chỉ có cách tổ chức của chúng ta là thế nào để không xảy ra những sơ xảy trong quá trình cổ phần hóa. Người lao động vẫn có quyền lợi của mình trong đó và cảm thấy phấn khởi hơn vì chúng ta được giải phóng sáng tạo, giải phóng động lực, được trả lương theo trình độ và đóng góp để sao những người công nhân trong các xí nghiệp cổ phần hóa có một sự nghiệp vững chắc. Còn với những người lãnh đạo thì phải lo làm sao dù trong hình thức kinh doanh thế nào vẫn đạt mục tiêu của đất nước, phát triển kinh tế thị trường nhưng vẫn đảm bảo vững chắc nền kinh tế của chúng ta.

"Trước hết mỗi người phải chịu trách nhiệm về mình"

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Nhiều bạn đọc gửi thư chúc mừng những thành tích vẻ vàng và chia sẻ, đồng cảm với những khó khăn của VNPT trong thời gian qua. Và một số bạn đọc có hỏi: với 60 năm như vậy, những sự việc vừa qua có làm ảnh hưởng đến hình ảnh đẹp của VNPT. Với tư cánh là Tổng Giám đốc của VNPT, ông Phạm Long Trận và VNPT có những giải pháp gì để làm được điều này, hạn chế những sai sót?

- Tổng GĐ VNPT Phạm Long Trận: Như chúng ta đã nói từ nãy đến giờ, những việc làm được của ngành Bưu điện nói chung và VNPT nói riêng trong thời gian vừa qua là rất đáng trân trọng, to lớn và như anh Tuấn đã nói lúc nãy là "thần kỳ". Tôi nghĩ cái đó mới là điều quan trọng chính. Do nhiều lý do khác nhau trong thời gian vừa qua, chúng ta đã phát triển rất nhanh, rất mạnh và quan hệ sản xuất, điều hành quản lý của chúng ta không theo kịp cho nên có một số lỗ hổng, một số vướng mắc và sai sót trong quản lý điều hành. Đây là thiếu sót của Tổng công ty chúng tôi, chúng tôi phải có biện pháp tức thời để sửa chữa, xử lý để tạo một khí thế mới, nhận thức mới cho đội ngũ cán bộ công nhân viên đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh hiện nay.

Về biện pháp, chúng tôi đã xem lại các cơ chế quản lý, quy định quản lý trong việc điều hành của Tổng Công ty. Còn những biện pháp khác, tôi cho rằng, phải tăng cường công tác nhận thức, giáo dục tư tưởng cho cán bộ công nhân viên từ trên xuống dưới để các đồng chí thấy rõ được những việc làm thế nào là đúng, việc làm thế nào là vì lợi ích của Tổng Công ty, việc làm thế nào là vì lợi ích của ngành, của đất nước và những việc làm nào sai trái để phân rõ được. Hơn ai hết, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về mình, phải phán xét được chính mình. Nếu để người khác quản lý, người khác làm thì công việc này rất khó khăn. Một biện pháp lớn nữa, chuẩn bị để thực hiện quyết định 58 của thủ tướng chính phủ ra ngày 23/3/2005, là xây dựng tập đoàn kinh tế mạnh. Dựa trên mô hình mới của Tập đoàn và cơ chế đổi mới của một mô hình sản xuất mới, tôi nghĩ đây là một vấn đề cơ bản có thể đẩy mạnh sự phát triển của Tổng Công ty, khắc phục được những yếu kém, những lỗ hổng trong quản lý hiện nay mà chúng tôi gặp phải. Có như thế, các biện pháp đó căn bản hơn và giải quyết vấn đề triệt để hơn.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Vâng, cũng quay trở lại vấn đề bất cập. Có một số ý kiến bạn đọc cho rằng, có vô lý không khi chính sách lương của chúng ta hiện nay chưa phải thực sự đã khuyến khích, nhất là trong DN nhà nước. VNPT có tình trạng đó không? Chúng tôi được biết, VNPT trong truyền thống lịch sử của mình và trong giai đoạn vừa qua đã xuất hiện nhiều tài năng và nhiều người có năng lực rất cao. Có người đã đã làm lợi cho Tổng Công ty một năm có khi đến hàng triệu đô la, nhưng tính ra, họ chỉ nhận được mức thu nhập khoảng 10.000 USD/năm, như một vài số liệu đã nêu. Vậy điều đó có hợp lý không? Có khuyến khích được người lao động không?

Tổng GĐ VNPT Phạm Long Trận: Hiện nay chúng tôi vẫn là một Tổng Công ty của Nhà nước. Chúng tôi phải tuân thủ theo những môi trường pháp lý và những quy định của một DN Nhà nước. Vì thế mức lương hiện nay của Tổng Công ty chúng tôi đang ở mức trung bình khá. Trong quy định của Nhà nước, chúng tôi chỉ có thể bằng cơ chế lương nhà nước cho phép để giải quyết tối đa nhất cho những người có cống hiến nhiều. Bằng quỹ khen thưởng, chúng tôi sẽ động viên sự cố gắng, sự cống hiến của các đồng chí trong đó. Ngoài ra chúng tôi không thể giải quyết gì hơn được. Vấn đề giải quyết tương đối rốt ráo, triệt để hơn một chút là được sự chỉ đạo của Nhà nước là dần dần chuyển Công ty sang hình thức mới là hình thức cổ phần. Với hình thức cổ phần thì người chủ tịch HĐQT, người Tổng giám đốc sẽ có quyền nhiều hơn, có thể bù đắp một cách tốt hơn cho những những cống hiến của người lao động có nhiều đóng góp. Hiện nay ở Tổng công ty chúng tôi cũng chỉ theo các quy định chung của Nhà nước về lương bổng và thu nhập.

- Chủ tịch Công đoàn BĐ Phan Hoàng Đức: Về vấn đề cơ chế phân phối thu nhập đối với các DN nhà nước nói chung, cũng như cơ chế phân phối thu nhập trong VNPT hiện nay đã hợp lý chưa? Chúng tôi hiện đang cố gắng ở mức hợp lý nhất so với cơ chế hiện nay. Nếu trả lời trực tiếp: một người làm ra lãi cho một DN tới hàng trăm triệu đô la một năm mà chỉ nhận được mười nghìn đô la, nếu nói một trường hợp cụ thể thì đây là một trường hợp bất hợp lý.

Tôi cũng muốn nêu lại, đối với những người lao động Bưu điện chúng tôi hiện nay, có thể nói đấy là một đức tính hi sinh rất lớn. Suốt 60 năm, qua hai cuộc kháng chiến, những người lao động bưu điện hết sức thầm lặng, hy sinh mất mát rất nhiều. Ngay cả trong công cuộc đổi mới, chúng tôi phấn đấu từ những giai đoạn đầu được 30kg đến 50kg gạo và 100kg gạo. Và hiện nay, khi chúng ta kinh doanh có lãi, thì nên thúc đẩy và động viên cho người lao động. Đây cũng là động lực để cho người lao động thực hiện được sứ mạng trong giai đoạn đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, như các đồng chí cũng đã đánh giá, đối với ngành Bưu điện, đóng góp cho ngân sách nhà nước khoảng 5.000 tỷ đồng/năm, đứng thứ hai trong các đơn vị đóng góp vào nền kinh tế đất nước, và mức thu nhập, theo như đồng chí Tổng giám đốc nêu, vẫn ở mức trung bình khá. Đó cũng là vấn đề đáng quan tâm. Để cải tiến vấn đề này, bản thân tôi thấy cũng cần phải khuyến nghị với Nhà nước để có những cơ chế phù hợp hơn, khuyến khích người lao động được tốt hơn nữa.

Cơ hội hợp tác và phát triển

Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Một bạn đọc ở TP. Hồ Chí Minh tên là Trần Hiền đặt câu hỏi. Câu này xin chuyển đến Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: “Trước hết chúc mừng ngành BCVT Việt Nam tròn 60 tuổi, đã phát triển với rất nhiều thành quả và đóng góp cho đất nước nhiều kỳ tích to lớn. Câu hỏi thứ nhất của tôi gửi đến Bộ trưởng Tá: Việc hợp tác giữa Bộ BC-VT với tập đoàn Intel theo kế hoạch đã triển khai đến đâu? Thứ hai, giữa Bưu điện và Truyền hình cáp TP. Hồ Chí Minh có mối liên hệ gì không để mở rộng hệ thống truyền hình cáp quang cho các quận nội thành?”

- Bộ trưởng, TSKH Đỗ Trung Tá: Phải nhìn nhận một trong những nhược điểm của quá trình phát triển CNTT ở Việt Nam là vẫn chưa có mặt nhiều công ty lớn về CNTT. Những năm qua, Bộ đã đặt chủ trương thu hút công ty lớn như Microsoft, Oracle, Intel... vào hoạt động ở Việt Nam. Đến nay, các công ty này đã có nhiều hợp tác rất tốt đẹp với Bộ. Với Intel, chúng ta đã ký kết văn bản để tăng cường các mối quan hệ. Trước hết, Intel sẽ hỗ trợ chúng ta trong việc đào tạo cán bộ. Sau đó là hỗ trợ trong việc chuyển giao những công nghệ mới nhất. Một điều khiến dư luận quan tâm là liệu Intel có đặt một nhà máy sản xuất chip hiện đại tại Việt Nam không? Điều này đang ở ranh giới có thể nói là có tính tranh chấp. Intel đang cần đặt hai nhà máy sản xuất chip nhưng lại có ba nước để lựa chọn. Tôi đã thuyết phục họ rằng đặt ở Việt Nam là thuận lợi. Nhưng đây là chuyện làm ăn kinh tế, các hãng nước ngoài cũng cần phải xem xét kỹ lưỡng trước các dự án kinh doanh lớn như vậy.

Trả lời về truyền hình cáp, Bộ BCVT hoan nghênh hình thức truyền hình cáp, đặc biệt là ứng dụng công nghệ số để không bị hạn chế số kênh. Nhà nước cũng đã cho phép chúng ta có truyền hình số mặt đất. Hiện nay chúng tôi ủng hộ những công nghệ truyền hình số vì những ưu việt về chất lượng và lợi ích đa dạng. Rất mong các tỉnh thành, các đài phát thanh - truyền hình địa phương, cũng như các Bưu điện tính toán thật tốt trong quy hoạch tương lai. Ví dụ như, tần số phải như thế nào cho phù hợp để chúng ta không bị lãng phí về tiền bạc... Với cương vị là nơi quản lý lĩnh vực phát sóng, tuần tới, Bộ BCVT sẽ có buổi họp để xem xét quy hoạch tổng thể phát thanh và truyền hình.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Có một câu hỏi của bạn đọc gửi Hiệp sĩ CNTT Huỳnh Ngọc Ẩn: "Anh có thể nghiên cứu phần mềm để chống truy cập vào những trang web bẩn được không? Những phần mềm hiện có của anh chỉ chặn được những trang web có chữ "nude" hay "sex", còn nếu không có những chữ này thì không chặn được?". (Bạn Trần Thanh Bình ở 323 Nguyễn Trãi, Vinh, Nghệ An).

- Hiệp sĩ CNTT Huỳnh Ngọc Ẩn: Khi xây dựng chương trình, chúng tôi có nhiều giải pháp để lựa chọn. Ví dụ, các chương trình chặn những trang web theo địa chỉ cố định (như bạn Thanh Bình đề xuất) thì chúng ta chỉ biết trang nào chặn trang đó. Như vậy sẽ phải liên tục cập nhật mà số lượng chặn được cũng hạn chế. Nếu chọn giải pháp dùng từ khóa thì số lượng trang nội dung xấu chặn được sẽ nhiều hơn, nhưng có hạn chế là có đôi khi bắt nhầm: có những trang không liên quan đến sex nhưng vô tình có từ liên quan đến điều đó thì cũng bị chặn. Tất nhiên mỗi phần mềm có những ưu, khuyết điểm, tùy theo mình chọn giải pháp. Như tôi được biết, hiện trên mạng Internet cũng có một số phần mềm phổ biến viết theo những giải pháp đó...

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn là một trong những gương mặt trẻ tiêu biểu trong ngành BCVT Việt Nam. Trong một giai đoạn cạnh tranh như hiện nay, vừa nhiều thách thức vừa nhiều cơ hội, các bạn trẻ thường hay có những vấp váp, vậy bạn có suy nghĩ gì về điều này?

- Hiệp sĩ CNTT Huỳnh Ngọc Ẩn: Trong cuộc sống cũng như công việc, những kỹ sư trẻ chúng tôi cũng có nhiều sai sót. Tuổi trẻ đôi khi háo thắng. Cuộc sống khó tránh khỏi vấp váp, nhưng tôi nghĩ điều cần thiết là phải lấy đó làm kinh nghiệm sống, cũng như kinh nghiệm làm việc cho mình. Khi mình đã mạnh dạn nhận thiếu sót, thì về cả gia đình, cơ quan, xã hội sẽ thông cảm và có những biện pháp hỗ trợ mình trong cuộc sống.

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Bạn có suy nghĩ thế nào về tương lai của Tổng Công ty BCVT Việt Nam trong bối cảnh sắp tới: không còn độc quyền, nhiều cạnh tranh, bị kiểm soát về giá cước, và nhiều thứ khác...?

- Hiệp sĩ CNTT Huỳnh Ngọc Ẩn: Theo suy nghĩ của bản thân tôi, trọng trách của VNPT rất nặng nề. Nói về tổng thể, đó là trách nhiệm của VNPT, còn nói chi tiết hơn, là trách nhiệm của mỗi con người trong VNPT. Những người thuộc thế hệ trẻ như chúng tôi phải phấn đấu rất nhiều mới theo kịp tiến độ phát triển của xã hội cũng như của CNTT. Theo tôi, VNPT sẽ phát triển theo mô hình một tập đoàn kinh tế mạnh của quốc gia, điều đó khó có thể khác được...

- Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn: Thưa quý vị và các bạn. Thời gian cuộc bàn tròn hôm nay đã khá dài. Những câu hỏi của độc giả gửi đến còn rất nhiều, nhưng chúng tôi không có điều kiện trả lời ngay được. Chúng tôi sẽ chuyển trực tiếp những câu còn lại tới các vị khách mời. Hy vọng, những nội dung trao đổi hôm nay đã cung cấp cho bạn đọc những thông tin có giá trị.

VietnamNet xin cảm ơn quý bạn đọc đã gửi thư và lời nhận xét. Đặc biệt cũng xin thay mặt các vị khách mời ngày hôm nay, xin cảm ơn quý vị đã có lời chúc mừng Ngày truyền thống 60 vẻ vang của ngành BC-VT Việt Nam.

Xin cảm ơn các vị khách mời đã nhiệt tình tham gia cuộc bàn tròn. Xin chào tạm biệt!.  

  • VietNamNet

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,