Thời lượng học của HS VN thuộc loại thấp nhất thế giới!
“Thời lượng học của học sinh các nước có nền giáo dục phát triển gấp hơn 2 lần thời lượng học của học sinh Việt Nam; thời lượng học của học sinh các nước trong khu vực gấp khoảng 1,5 lần thời lượng học của học sinh Việt Nam”. Đó là phản hồi của Bộ GD-ĐT trước yêu cầu giảm tải chương trình học cho học sinh phổ thông.
Hiện nay học sinh và thầy, cô giáo không được nghỉ ngày thứ bảy như quy định. |
I- VỀ VẤN ĐỀ DẠY THÊM, HỌC THÊM
Cử tri tỉnh Bắc Ninh: “Việc tổ chức học 2 buổi/ngày có phải là học thêm không? đề nghị quy định rõ trong Luật giáo dục về chế độ dạy 2 buổi/ngày của giáo viên hiện nay là mâu thuẫn với Nghị định của Chính phủ về làm thêm giờ?”.
Trả lời:
Tổ chức dạy học 2 buổi/ngày là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển giáo dục của Việt
Mục tiêu của việc dạy học 2 buổi/ngày ở trường tiểu học nhằm thực hiện việc giáo dục toàn diện, đảm bảo chất lượng đáp ứng nhu cầu về chăm sóc giáo dục trẻ em của gia đình và xã hội, góp phần giải quyết vấn đề quá tải và dạy thêm - học thêm tiêu cực tràn lan ở các trường tiểu học. Dạy học 2 buổi/ngày không phải là dạy thêm - học thêm theo cách hiểu đơn giản hiện nay. Để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, giáo viên phải tăng thời gian làm việc, nhà trường phải có thêm phòng học, bàn ghế và các thiết bị khác. Như vậy, trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, cần phải có sự đóng góp của cha mẹ học sinh. Về việc này, Bộ GD&ĐT đã có các văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện như sau:
- Trong thông tư số 36/1999/TT-BGD&ĐT ngày 27/9/1999 của Bộ GD&ĐT hướng dẫn thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ đối với ngành giáo dục và đào tạo, có nêu đối với các trường, lớp học trên 5 buổi/tuần cần tăng cường giáo viên về cả số lượng và loại hình theo hình thức hợp đồng. Kinh phí bồi dưỡng giáo viên dạy hợp đồng và giáo viên dạy quá 5 buổi/tuần do phụ huynh đóng góp theo qui định. Những giáo viên được bố trí dạy buổi thứ 2 thì ngoài dạy buổi thứ nhất theo kế hoạch 1 buổi/ngày (5 buổi/tuần) cũng không được dạy quá 10 tiết/tuần
- Trong văn bản số 10176/TH ngày 7/11/2000 về hướng dẫn kế hoạch dạy học 2 buổi/ngày và chế độ cho giáo viên dạy 2 buổi/ngày, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho các địa phương giải quyết theo các văn bản hướng dẫn của Bộ như: văn bản số 4195/KHTC ngày 29/5/1997 về thu các khoản tại các trường học, Chỉ thị 15/2000/CT-BGD&ĐT ngày 17/5/2000 về các biện pháp cấp bách tăng cường quản lí dạy thêm học thêm, văn bản 9254/TH ngày 30/9/2000 hướng dẫn thực hiện làm việc 40 giờ/tuần ở tiểu học.
- Trong văn bản số 7053/BGD&ĐT-GDTH hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2005-2006 ở cấp tiểu học, Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn giải quyết chế độ cho các giáo viên dạy buổi thứ 2 bằng nguồn kinh phí do phụ huynh đóng góp.
Việc tổ chức học 2 buổi/ngày là một giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở cấp tiểu học và trong điều kiện hiện nay, mỗi địa phương cần căn cứ vào điều kiện về cơ sở vất chất, về đội ngũ giáo viên ở địa phương để lựa chọn bước đi phù hợp.
II- VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC
Cử tri tỉnh Hà Tĩnh, Lạng Sơn: “Quốc hội, Chính phủ cho áp dụng thời gian làm việc 40 giờ trên tuần như các công chức hành chính, sự nghiệp khác. Đồng thời hiện nay có tình trạng một số giáo viên chưa đến tuổi nghỉ hưu nhưng do điều kiện về sức khoẻ, năng lực v.v... không đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, hoặc có nhu cầu nghỉ. Để tạo điều kiện thu hút thêm các thầy cô giáo trẻ sớm xây dựng đội ngũ kế cận đề nghị Chính phủ có quy định riêng về chế độ nghỉ hưu trước tuổi cho các đối tượng này”.
Trả lời:
a) Về đề nghị cho giáo viên được áp dụng thời gian làm việc 40 giờ/tuần như các công chức, hành chính, sự nghiệp khác.
Sau khi Chính phủ ban hành chế độ làm việc 40 giờ/tuần, để áp dụng cho ngành giáo dục, có 2 vấn đề đặt ra: giáo viên muốn được nghỉ 2 ngày liền và được giảm giờ dạy.
Đối với nguyện vọng của giáo viên muốn được nghỉ liền hai ngày thứ 7 và chủ nhật như những cán bộ sự nghiệp hành chính khác thì khó khăn lớn nhất là vấn đề thời lượng học trên lớp trong mỗi ngày của học sinh. Nếu nghỉ thêm ngày thứ 7, học sinh sẽ chỉ học và tham gia các hoạt động khác trong 5 buổi và số tiết quy định cho mỗi buổi sẽ quá lớn (ít nhất là mỗi buổi sẽ thêm 1 tiết), như vậy thì không thể đảm bảo sức khoẻ và kết quả học tập của học sinh. Trong điều kiện hiện nay, để đáp ứng một phần yêu cầu của giáo viên THCS và THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các địa phương chỉ đạo các trường bố trí thời khoá biểu để giáo viên được nghỉ thêm 1 ngày trong tuần ngoài chủ nhật.
Đối với yêu cầu giảm giờ dạy của giáo viên, Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ đã nghiên cứu để ban hành Thông tư Liên tịch hướng dẫn định mức biên chế giáo viên các trường THCS là 1,90 giáo viên/lớp (định mức cũ là 1,85) và 2,22 giáo viên/lớp đối với các trường THPT (định mức cũ là 2,10 giáo viên/lớp) để thực hiện chế độ giáo viên THCS dạy 19 tiết/tuần (quy định cũ 20 tiết/tuần) và giáo viên THPT dạy 17 tiết/tuần (quy định cũ 18 tiết/tuần); đồng thời Liên Bộ đã phối hợp để ban hành Thông tư 26/2004/TT -BGD&ĐT ngày 10/8/2004 về hướng dẫn định mức biên chế giáo viên các trường THPT thực hiện thí điểm chương trình THPT phân ban và THPT kỹ thuật, theo đó giáo viên được thực hiện chế độ dạy 17 tiết/tuần (giảm 1 tiết so với trước) và định mức biên chế giáo viên 2,25 giáo viên/lớp (định mức cũ 2,10 giáo viên/lớp). Cùng với việc giải quyết vấn đề giáo viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tích cực chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh việc chuẩn bị cho việc học sinh được học 2 buổi/ngày. Từ năm học 2003 - 2004, Bộ đã có hướng dẫn về việc các trường PTDT nội trú, các trường THCS, THPT có điều kiện về cơ sở vật chất giáo viên và phụ huynh có nhu cầu thì tổ chức dạy 2 buổi/ngày.
b) Về đề nghị có quy định riêng về chế độ nghỉ hưu trước tuổi
Theo thông tư số 73/2000/TTLT-BTCCBCP ngày 28/12/2000 của Liên Bộ hướng dẫn thực hiện chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, các đối tượng sau đây sẽ được nghỉ hưu sớm:
- Những giáo viên có trình độ chuyên môn yếu hoặc tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thường xuyên không đảm bảo chất lượng và thời gian quy định đối với công việc được giao trong 2 năm trở lại đây.
- Những người 2 năm trở lại đây mỗi năm có tổng số ngày nghỉ từ 60 ngày trở lên nếu chưa đủ tuổi để nghỉ hưu thì đưa vào diện giảm biên chế và cho nghỉ hưu trước tuổi.
Chế độ được hưởng như sau:
Đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi đối với nam, đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi đối với nữ có đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên thì được nghỉ hưu trước tuổi nhưng không bị giảm trừ tỷ lệ lương hưu do nghỉ trước tuổi, ngoài ra còn được thêm 03 khoản trợ cấp:
+ Cứ mỗi năm nghỉ sớm được trợ cấp 03 tháng lương và phụ cấp hiện hưởng.
+ Thời gian công tác 20 năm đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp 5 tháng lương và phụ cấp hiện hưởng.
+ Thời gian công tác từ năm thứ 21 có đóng bảo hiểm xã hội trở lên, cứ mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp 1/2 tháng lương hiện hưởng (các chế độ chính sách này được áp dụng từ năm 2000 đến nay).
Cử tri tỉnh Ninh Bình: “Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội có kế hoạch đào tạo hợp lý để đầu vào và đầu ra được cân đối. Đặc biệt có chính sách thu hút đào tạo ở các trường dạy nghề tạo điều kiện cho con em nông dân có điều kiện theo học. Hiện nay đang có thực trạng “thầy nhiều thợ ít” dẫn đến mất cân đối về nguồn nhân lực trong cơ cấu kinh tế. Rất ít sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học, Cao đẳng có việc làm và làm đúng ngành nghề được đào tạo trong khi đó đội ngũ công nhân, thợ kỹ thuật lành nghề lại không có nhiều để cung cấp cho các nhà máy, xí nghiệp và các khu công nghiệp cao. Đặc biệt phải rà soát lại và có quy chế chặt chẽ trong việc đào tạo “tại chức”, khắc phục tình trạng đào tạo tràn lan, hình thức như hiện nay”.
Trả lời:
a) Về đảm bảo cân đối kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực
Trên thực tế, tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường của một số ngành chưa được tuyển dụng, phải đi làm một số việc không đúng ngành nghề được đào tạo. Hiện tượng này làm cho xã hội lo lắng về những bất cập trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực của nước ta trước yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là yêu cầu của sự nghiệp CNH và HĐH đất nước trong bối cảnh của toàn cầu hoá và cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng gay gắt. Nguyên nhân của tình hình thì có nhiều, trong đó một số nguyên nhân chủ yếu là:
- Tình trạng phát triển kinh tế-xã hội chưa đồng đều giữa các vùng, địa phương và ngành sản xuất;
- Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, vốn đầu tư hằng năm tăng chậm nên việc thu nhận nhân lực cũng tăng chậm.
- Nền kinh tế nhiều thành phần đã được hình thành nhưng quan niệm về nghề nghiệp và nơi làm việc trong xã hội chưa được định hướng phù hợp với sự thay đổi cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội chưa quen với việc cá nhân tự tổ chức làm việc cũng đồng nghĩa là có việc làm.
- Chính sách thu hút lao động đến những vùng khó khăn, chậm phát triển chưa đủ sức hấp dẫn để sinh viên sau khi tốt nghiệp trở về quê hương hoặc đến những vùng khó khăn làm việc.
- Tập quán xã hội và mong muốn đạt được trình độ học vấn nhất định ở trình độ cao vẫn còn phổ biến.
- Công cụ làm kế hoạch (công tác dự báo, hệ thống thông tin kinh tế, số liệu thống kê kinh tế-xã hội...), phương pháp làm kế hoạch và đội ngũ cán bộ làm kế hoạch đào tạo chưa đáp ứng được tình hình mới.
Ý kiến của cử tri tỉnh Ninh Bình phản ánh là một thực tế. Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành sẽ nghiên cứu, phân tích khi xây dựng kế hoạch đào tạo hằng năm và kế hoạch 5 năm để các chỉ tiêu và biện pháp ngày càng phù hợp với thực tế đời sống xã hội hơn.
b) Về quản lý đào tạo không chính quy
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiến hành đánh giá tổng thể tình hình đào tạo tại chức trong những năm vừa qua để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Một trong những yêu cầu của công tác đánh giá là qua đó chấn chỉnh lại những hoạt động chưa được sự đồng tình của dư luận xã hội đối với hình thức đào tạo này như tuyển sinh (đầu vào), điều kiện về cơ sở vật chất tổ chức lớp học tại chức ở các địa phương, đội ngũ giảng viên, đánh giá thi cử môn học, tốt nghiệp...
Trong nhiều năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học bao gồm cả hệ chính quy và tại chức, trong đó nhấn mạnh chấn chỉnh công tác đào tạo cao đẳng, đại học hệ tại chức ở các trường, các trung tâm giáo dục thường xuyên tại các địa phương, từ việc xem xét giao chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức thi tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp…, vì vậy , chất lượng đào tạo của hệ đào tạo này từng bước được củng cố và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc phát triển kinh tế – xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bắt đầu từ năm 2006, theo Luật Giáo dục các khoá đào tạo tại chức sẽ phải thực hiện các yêu cầu của chương trình chính quy, không hạ thấp về chuẩn mực. Về lâu dài, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương phân luồng học sinh từ các bậc học thấp thông qua việc quy hoạch có hệ thống các trường dạy nghề thích hợp tại các địa phương, các cơ sở sản xuất tập trung, các khu công nghiệp, các doanh nghiệp lớn, để giảm bớt lưu lượng học sinh đăng ký thi vào các trường đại học, cao đẳng đặc biệt ở các thành phố lớn. Đồng thời tăng cường thành lập các trường cao đẳng cộng đồng, cao đẳng kinh tế – kỹ thuật ở các tỉnh. Các trường này đào tạo đa ngành, đa trình độ từ cao đẳng trở xuống đến dạy nghề ngắn hạn cho những học sinh không đủ trình độ hoặc có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn không thể theo học tại các trường đại học, cao đẳng. Bên cạnh đó là chỉ đạo việc xây dựng chương trình đào tạo liên thông giữa các cấp bậc học phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, tạo điều kiện cho người học có cơ hội học tập lên các bậc học cao hơn, học suốt đời và tìm kiếm việc làm.
Cử tri tỉnh Thái Nguyên: “Đề nghị Bộ Giáo dục- Đào tạo phân cấp quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học như về tuyển sinh đào tạo, cấp bằng Tiến sĩ, cử người đi nước ngoài, nghiệm thu các đề tài cấp bộ… Đồng thời rà soát sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các văn bản hướng dẫn không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay như Thông tư 37, văn bản số 1712… quy định về định mức, chế độ lao động của giáo viên”.
Trả lời:
Trong tháng 7/2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ về Đề án đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2005 - 2020. Chính phủ đã thảo luận và sẽ ra nghị quyết về vấn đề này. Theo dự kiến, cùng với Luật Giáo dục, các văn bản của Chính phủ sắp được ban hành trong thời gian tới sẽ đảm bảo các nội dung về phân cấp quản lý như cử tri đề nghị. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phối hợp với trường ĐH Kinh tế quốc dân soạn thảo văn bản mới thay thế Quyết định 171, dự kiến ban hành vào năm 2006.
III- VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN
Cử tri các tỉnh Hải Dương, Quảng Bình, Ninh Bình, Thái Nguyên, Thái Bình, Hưng Yên, Nghệ An, Nam Định, Vĩnh Long, Hải Phòng: “Về bậc mầm non, Nhà nước nên chuẩn hoá đội ngũ giáo viên mầm non, cho hưởng BHXH 100% (hiện nay mới chỉ Hiệu trưởng, Hiệu phó được hưởng), đưa giáo dục mầm non nằm trong hệ thống quản lý giáo dục quốc gia, có biên chế và quỹ lương, có chính sách cụ thể khi nghỉ chế độ. Hiện nay lương của giáo viên mầm non rất thấp, đặc biệt là các cô giáo dạy hợp đồng. Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng các cô vẫn bám lớp, bám trường và tâm huyết với học sinh của mình. Việc đầu tư mọi mặt ở bậc học này còn thấp, đề nghị Nhà nước quan tâm hỗ trợ về cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non; Đánh giá lại QĐ 161/2001/CP của Chính phủ để bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao chất lượng bậc học này”.
Trả lời:
a) Về công tác chuẩn hoá đội ngũ giáo viên:
Đối với giáo dục mầm non, việc chuẩn hoá đội ngũ là một trong những công việc toàn ngành đang quan tâm, vì yêu cầu nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ, đồng thời cũng là quyền lợi và nghĩa vụ của giáo viên hiện nay.
Do yêu cầu nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, Bộ đã khuyến khích giáo viên tích cực học tập nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của xã hội, của các bậc cha mẹ, nhất là trong giai đoạn đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp chăm sóc giáo dục mới, hoà nhập và đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Bản thân giáo viên cũng ý thức được việc này nên nhiều chị em mặc dầu đời sống khó khăn cũng đã tự bỏ tiền ra để đi học. Nhờ những nỗ lực đó, số giáo viên có trình độ chuẩn trở lên đã tăng từ 40,77% (năm 2000) lên 75,78% (năm 2005). Theo đề án phát triển giáo viên mục tiêu chuẩn hoá giáo viên mầm non đến năm 2010 là: 80% và đến năm 2020 là 100%.
b) Về việc thực hiện chế độ chính sách cho giáo viên:
Đối với giáo viên mầm non trong biên chế, việc thực hiện chế độ chính sách vẫn được thực hiện theo quy định như đối với các giáo viên thuộc các cấp học khác. Hiện nay, Nhà nước đã có quyết định trả lương cho giáo viên mầm non theo trình độ đào tạo (QĐ số 61/2005/QĐ-BNV ngày 15/6/2005).
- Đối với giáo viên mầm non ngoài biên chế, việc thực hiện chế độ chính sách trong thực tế gần đây đã có sự cải thiện đáng kể. Sau khi có chỉ thị 18/TTg về một số biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân và Quyết định 161/2002/TTg của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã có nhiều tiến bộ trong chế độ đãi ngộ giáo viên ngoài biên chế. Thu nhập và mức sống giáo viên ngoài biên chế được cải thiện một bước ở hầu hết các tỉnh, thành phố: trên 9.930 giáo viên được ký kết hợp đồng lao động với mức thu nhập bình quân hơn 290.000 đồng/ tháng. Trên 70% giáo viên ngoài biên chế được tham gia BHXH, BHYT ở mức độ khác nhau. Tuy vậy cuộc sống của đội ngũ giáo viên ngoài biên chế vẫn rất khó khăn vì nguồn thu không đủ và từ tháng 10/2004, Nhà nước đã điều chỉnh theo hệ số lương mới, thu nhập của cán bộ hưởng lương tăng lên bình quân 30% trong khi hướng dẫn thực hiện quyết định 161 vẫn chỉ hỗ trợ giáo viên để có tổng thu nhập ở mức tối thiểu.
c) Về đánh giá kết quả thực hiện quyết định 161/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có hội nghị đánh giá 2 năm thực hiện quyết định 161, với mặt được và chưa được như sau:
- Ở hầu hết các địa phương: Nhận thức của cán bộ và nhân dân về quán triệt và thực hiện Quyết định 161/2002/QĐ-TTg và Thông tư 05/BGD&ĐT-BNV-BTC trong giáo dục mầm non được nâng cao. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương các cấp đã vào cuộc, một không khí mới trong xây dựng, cải thiện điều kiện chăm sóc - giáo dục trẻ đang dấy lên và phát huy tác dụng trực tiếp đến phát triển giáo dục mầm non.
- Số xã "trắng" về mầm non được xoá cơ bản, mạng lưới được củng cố: Từ chỗ năm 2002 còn có 222 xã trắng về mầm non nhưng đến nay chỉ còn lại 4 xã, đây không những là một nỗ lực lớn của các tỉnh có xã "trắng" mà điều quan trọng là nó có ảnh hưởng xã hội rất tích cực: nhân dân ở những nơi đặc biệt khó khăn thấy rõ con em của họ được quan tâm, chăm sóc, được đầu tư; ông bà, cha mẹ trẻ trên các vùng khó khăn đã mặc nhiên tham gia vào quá trình chăm sóc- giáo dục trẻ và phối hợp với nhà trường, với ngành giáo dục để đảm bảo "quyền trẻ em". Việc mở các cơ sở giáo dục mầm non ở xã đặc biệt khó khăn đã góp phần giải quyết công việc cho một bộ phận giáo viên nữ miền núi, dân tộc thiểu số và cho chúng ta hy vọng vào việc phổ cập giáo dục tiểu học có hiệu quả cho những xã đặc biệt khó khăn này.
- Việc tuyển dụng biên chế cho nơi khó khăn và thực hiện chế độ chính sách cho giáo viên mầm non ngoài biên chế có những bước chuyển lớn. Nhiều giáo viên và cán bộ quản lý mầm non ở vùng khó khăn được hưởng biên chế và đóng BHXH (trong 2 năm cả nước có 6.632 cán bộ, giáo viên được biên chế cho miền núi và các xã đặc biệt khó khăn; 62.396 giáo viên, chiếm 76% giáo viên ngoài biên chế được đóng BHXH, BHTY). Điều đó đã giải quyết nhiều khó khăn hiện tại cho giáo viên và mang lại niềm tin trong xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên mầm non giai đoạn tiếp theo.
- Mạng lưới GDMN cũng được quy hoạch lại theo các đề án phát triển ngành của các địa phương. Tất cả các loại hình GDMN đều được sắp xếp, chuyển đổi theo hướng xã hội hoá sự nghiệp GDMN phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương: phát triển công lập ở nơi đặc biệt khó khăn, phát triển bán công, tư thục ở thành phố và nơi thuận lợi. Đồng thời, ở nơi có điều kiện kinh tế phát triển hơn, các địa phương đã huy động nguồn lực, đầu tư trang bị phòng học, sân trường, phòng tập bếp ăn và các thiết bị, đồ chơi chơi xây dựng các trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, dần tiếp cận với trình độ và điều kiện chăm sóc nuôi dạy trẻ ở các nước trong khu vực.
- Số trẻ đến lớp tăng lên ở các vùng khó khăn và vùng nông thôn do trường, lớp tăng thêm ở các vùng. Do số trường, lớp tăng thêm, đã tăng đáng kể số trẻ ra lớp từ 144.499 chău (2003) - 166.755 cháu (2004). Trong đó năm 2004, các vùng có số trẻ tăng thêm nhiều là: Đông Bắc: 34.836 cháu; Tây Bắc: 9.504 cháu; Tây Nguyên: 9.045 cháu; Đồng bằng sông Cửu Long: 19.888 cháu. Do điều kiện trường, lớp thiết bị và đồ chơi cho trẻ đang dần dần được cải thiện, công tác nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ tiếp tục được nâng lên. Cháu đến trường với môi trường tốt hơn, được chăm sóc tốt hơn ngày càng được nhân dân tín nhiệm, số trẻ đến lớp ngày càng tăng.
Song, quá trình triển khai thực hiện Quyết định 161/2002/QĐ-TTg đang bộc lộ những vướng mắc cần được tháo gỡ, giải quyết như :
- Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định 161/2002/QĐ-TTg ở cả Trung ương và địa phương chưa đồng bộ và đầy đủ, chưa đáp ứng hết yêu cầu của thực tiễn. Có vấn đề chưa nhất quán giữa Quyết định 161/2002/Tg và những giới hạn tại Thông tư Liên tịch 05/2003 về chính sách đối với giáo viên ngoài biên chế.
- Về công tác chỉ đạo: Vẫn chưa có sự chỉ đạo đầy đủ, tích cực của Liên ngành. Quá trình đi kiểm tra của 4 đoàn ở các địa phương cho thấy các chế độ, chính sách liên quan đối với từng ngành như Tài chính, BHXH, Nội vụ tại cơ sở chưa có sự đồng bộ. Đó là các vấn đề về tuyển biên chế cho cán bộ quản lý, cho giáo viên ở các xã đặc biệt khó khăn, vấn đề kinh phí cấp xã cho giáo dục mầm non, vấn đề phối hợp kinh phí từ các nguồn dự án, chương trình mục tiêu khác nhau cho giáo dục mầm non.
- Đối với việc thực hiện Thông tư Liên tịch 05, việc dành một tỷ lệ ngân sách ít nhất 10% cho giáo dục mầm non thực hiện khó khăn. Còn gần 2/3 số tỉnh (năm 2003 còn 43 tỉnh, năm 2004 có 40 tỉnh) chi cho GDMN dưới 10%. Số tỉnh chi đạt mức yêu cầu, trong năm 2003 có 14 tỉnh, 2004 có 18 tỉnh; số tỉnh chi trên 13% là rất ít: năm 2003 chỉ có 4 tỉnh, năm 2004 có 5 tỉnh.
- Thiếu nguồn lực để giải quyết những vấn đề then chốt cho GDMN như: đảm bảo tính bền vững của công tác xoá xã trắng, củng cố và xây dựng GDMN ở các xã khó khăn, thực hiện chế độ chính sách cho giáo viên và thử nghiệm chương trình mới.
Đặc biệt là khi Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ra đời, một số vấn đề về loại hình GDMN, các chính sách với giáo viên cần được sửa đổi để phù hợp hơn. Trong những năm tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với các bộ, ngành tiếp tục ban hành các văn bản cụ thể.
Cử tri tỉnh Trà Vinh: “chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chuẩn hoá đội ngũ giáo viên là đúng nhưng nhiều giáo viên đề nghị Nhà nước có chính sách sử dụng đối với giáo viên hiện không đủ chuẩn, trong đó có giáo viên đào tạo qua các hình thức 9+1 và 9+3, hiện nay rất đông, có thể xem lại năng lực, kinh nghiệm, tuổi đời, sức khoẻ… để tiếp tục sử dụng trong một thời gian”.
Trả lời:
Thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư Trung ương về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục và Quyết định số 09/2005-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010”, ngành giáo dục có nhiệm vụ tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo đủ số lượng và cân đối về cơ cấu, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Đối với giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn đào tạo nhưng có đủ sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn và còn trong độ tuổi đào tạo tiếp tục sử dụng đồng thời có kế hoạch bố trí cho đi đào tạo tiếp để đạt trình độ chuẩn. Đối với những giáo viên không đủ sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn yếu, quá tuổi đào tạo thì xem xét giải quyết chế độ theo Nghị quyết 09/2003/NQ-CP ngày 28/7/2003 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Nhiều địa phương đã triển khai làm tốt chủ trương này như Hải Dương, Nghệ An, Đà Nẵng, An Giang, Thừa Thiên – Huế, v.v... và các địa phương này phấn đấu đến năm 2006-2007 không còn giáo viên không đáp ứng yêu cầu.
Cử tri các tỉnh Quảng Ngãi, Khánh Hoà, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Thái Bình, Lạng Sơn, Quảng Bình: “Cử tri các vùng nông thôn, các hộ nghèo cho rằng việc mua sách giáo khoa cho con em của họ đi học đã trở thành một gánh nặng vì sách giáo khoa luôn thay đổi, giá lại quá cao. Đề nghị trước mắt cũng cần có biện pháp giảm giá hoặc cho mượn sách giáo khoa để giảm bớt khó khăn cho người dân. Đề nghị Bộ Giáo dục và đào tạo nghiên cứu phải ổn định sách giáo khoa, không nên mỗi tỉnh ra một đầu sách giáo khoa vừa tốn kém tiền của, vừa mang tính thương mại hoá trong giáo dục; từng môn học cần được Trung ương soạn thảo công phu, hoàn chỉnh, phù hợp trình độ giáo dục trong nước và các nước trong khu vực đồng thời mang tính thực tiễn có khả năng sử dụng lâu dài”.
Trả lời:
Theo quy định của Luật Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về việc biên soạn sách giáo khoa, như vậy không thể có tình trạng mỗi tỉnh ra một đầu SGK.
Giá bán lẻ sách giáo khoa hàng năm đều được Nhà xuất bản Giáo dục trình Bộ Giáo dục và Đào tạo và gửi Bộ Tài chính để xem xét chỉ đạo. Những năm qua tuy có những biến động của giá cả thị trường nhưng Nhà xuất bản Giáo dục đã cố gắng tìm mọi biện pháp vừa nâng cao chất lượng in ấn sách giáo khoa vừa đảm bảo giữ ổn định giá bán lẻ. Cụ thể, bộ sách giáo khoa lớp 3 gồm 6 cuốn (3 cuốn in 4 màu, 3 cuốn in 2 màu) với tổng số trang 744 trang mà giá bán lẻ chỉ có 38.700 đồng ; bộ sách giáo khoa lớp 4 gồm 9 cuốn (7 cuốn in 4 màu, 2 cuốn in 2 màu) với tổng số trang 1180 trang mà giá bán lẻ chỉ có 62.300 đồng.
Để đảm bảo mọi học sinh đều có sách giáo khoa để học, theo chỉ đạo của Chính phủ, các địa phương đã cấp kinh phí mua sách giáo khoa mới để phát không cho học sinh miền núi, vùng đặc biệt khó khăn và đưa vào thư viện trường học cho học sinh mượn. Ngoài ra, theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Giáo dục đã chỉ đạo các Công ty Sách Thiết bị trường học phát phiếu ưu tiên giảm giá (10 15%) cho học sinh thuộc diện chính sách, học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó. Ngoài ra, Nhà xuất bản Giáo dục còn có nhiều hình thức tặng sách giáo khoa cho thư viện một số vùng đặc biệt khó khăn. Những cố gắng nói trên, bước đầu đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu sách giáo khoa. Trong những năm tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tăng cường chỉ đạo để nâng dần số lượng sách giáo khoa trong các tủ sách dùng chung ở các trường.
Cử tri các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và TP.Hà Nội: “Đề nghị xem xét, nghiên cứu để tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục chất lượng các môn học, nhất là việc giáo dục về lịch sử cách mạng, truyền thống dân tộc, cần quan tâm giáo dục đạo đức cho các cháu nhiều hơn nữa. Giờ học giáo dục công dân còn khô khan, không có sức hấp dẫn; quan tâm hơn nữa đến vấn đề sách giáo khoa, thiết bị dạy học phải đảm bảo chất lượng, được cấp sớm cho các trường vào đầu năm học mới”.
Trả lời:
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 9 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội, những năm vừa qua, ngành giáo dục đã tiến hành đổi mới giáo dục phổ thông đồng bộ về tất cả các mặt : nội dung, phương pháp giáo dục ; sách giáo khoa; thiết bị giáo dục; kiểm tra, đánh giá; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên;…
Trong nhà trường phổ thông hiện nay, việc giáo dục lịch sử cách mạng, truyền thống dân tộc, giáo dục đạo đức- công dân cho học sinh luôn được coi trọng. Những nội dung giáo dục quan trọng này đã được chuyển tải tới học sinh thông qua việc dạy học các môn học đạo đức, lịch sử, tiếng Việt, nghệ thuật (ở tiểu học), giáo dục công dân, lịch sử, ngữ văn, âm nhạc, mĩ thuật (ở trung học). Đồng thời thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, với các hình thức phong phú như : Thi tìm hiểu về lịch sử, truyền thống của dân tộc ; thi vẽ tranh ; biểu diễn văn nghệ ; diễn đàn ; giao lưu giữa học sinh với các vị lão thành Cách mạng, các nhà hoạt động xã hội ; tham quan các di tích lịch sử và cách mạng ;…
Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân trong các nhà trường hiện nay cũng đã được đổi mới theo hướng :
- Tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên, các em có thể tự khám phá và chiếm lĩnh các giá trị, chuẩn mực của xã hội, biến nó thành niềm tin, tình cảm, hành vi đạo đức của mình.
- Dạy học môn GDCD gắn liền với thực tiễn cuộc sống của học sinh. Trong quá trình dạy học, giáo viên thường xuyên tổ chức cho học sinh liên hệ, thảo luận, phân tích các tình huống, các hiện tượng, sự kiện trong đời sống ở lớp học, nhà trường, địa phương; hướng dẫn, giúp đỡ, các em thực hiện các dự án phù hợp với lứa tuổi để thực hành bài học, góp phần cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh các em.
- Các phương pháp và hình thức dạy học môn GDCD rất phong phú, đa dạng, bao gồm cả các phương pháp dạy học hiện đại (như: đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chức trò chơi, giải quyết vấn đề, động não, dự án, …) và các phương pháp truyền thống (như: kể chuyện, đàm thoại, nêu gương, trực quan, khen thưởng,...); bao gồm cả hình thức học cá nhân, theo lớp và theo nhóm; học ở trong lớp, ngoài sân trường, vườn trường, và tham quan các di tích văn hoá, các địa điểm có liên quan đến nội dung học tập.
Với những định hướng đổi mới phương pháp trên, sau ba năm triển khai dạy học theo chương trình và sách mới đã cho thấy môn GDCD là một trong những môn học được học sinh thích học và được giáo viên đánh giá cao về những đổi mới nội dung và phương pháp dạy học.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin cảm ơn và xin tiếp thu ý kiến của cử tri, tiếp tục nghiên cứu cải tiến, đổi mới để làm cho việc dạy học môn GDCD ngày càng đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn.
Cử tri các tỉnh Bình Định, Phú Thọ, An Giang, Thái Bình, Lạng Sơn và Tp Hồ Chí Minh: “Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo: xem xét, sửa đổi lại nội dung chương trình giáo dục ở các trường đại học, cao đẳng dạy nghề theo hướng giảm lý thuyết, tăng thực hành và chương trình ngoại khoá nhằm nâng cao khả năng ứng dụng của sinh viên sau khi ra trường; cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo đại học để đáp ứng được yêu cầu thực tế hiện nay; có kế hoạch quy hoạch phù hợp với yêu cầu sử dụng lao động để tránh tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, thợ chuyên môn bậc cao hiếm; đẩy mạnh tuyên truyền, tổ chức hoạt động hướng nghiệp cho học sinh đảm bảo liên thông giữa dạy nghề với các chương trình giáo dục khác trong hệ thống giáo dục...”
Trả lời:
a) Về chương trình giáo dục đại học, cao đẳng
Về chương trình giáo dục đại học, cao đẳng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ trong Đề án đổi mới giáo dục đại học. Theo dự kiến, chương trình giáo dục đại học sẽ được phân thành hai hướng: hướng nghiên cứu – phát triển và hướng thực hành – ứng dụng. Những yêu cầu của cử tri: xem xét, sửa đổi lại nội dung chương trình giáo dục ở các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề theo hướng giảm lý thuyết, tặng thực hành và chương trình ngoại khoá nhằm nâng cao khả năng ứng dụng của sinh viên sau khi ra trường sẽ tập trung giải quyết trong 5 năm tới trong khuôn khổ của đề án đổi mới giáo dục đại học và triển khai Luật Giáo dục 2005.
b) Về cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo đại học để đáp ứng được yêu cầu thực tế hiện nay.
Theo Luật Giáo dục sửa đổi, giáo dục nghề nghiệp gồm có trung cấp chuyên nghiệp và đào tạo nghề ở các trình độ sơ cấp, trung cấp và trình độ cao đẳng. Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là: cao đẳng và đại học.
Để giảm bớt mất cân đối hiện nay giữa đào tạo nghề nghiệp và đào tạo cao đẳng, đại học, Bộ GD&ĐT sẽ tiến hành phân luồng học sinh từ sau trung học cơ sở. Một bộ phận học sinh sau trung học cơ sở sẽ đi vào các trường dạy nghề sơ cấp hoặc trung cấp chuyên nghiệp, một bộ phận lớn học sinh sau trung học phổ thông không đủ điều kiện vào các trường đại học sẽ vào học tại các trường cao đẳng nghề, cao đẳng cộng đồng hoặc cao đẳng khác ở các địa phương.
Để giải quyết tốt hướng phân luồng này, Bộ GD&ĐT khuyến khích các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn có đủ điều kiện thành lập các trường đào tạo nghề, các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề để tạo cơ hội cho công nhân ở các cơ sở sản xuất có điều kiện học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
c) Về chương trình giáo dục trung học chuyên nghiệp
- Mục tiêu giáo dục trung học chuyên nghiệp (THCN) là đào tạo người lao động có kiến thức và kỹ năng thực hành ở trình độ trung cấp; có đạo đức và lương tâm nghề nghiệp; có ý thức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp và có khả năng tạo dựng nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm. Để đạt được mục tiêu này, ngày 06/6/2001, Bộ trưởng ký ban hành Quyết định số 21/2001/QĐ-BGD&ĐT về việc ban hành “Chương trình khung giáo dục trung học chuyên nghiệp”. Chương trình khung giáo dục THCN quy định khối lượng kiến thức đào tạo THCN cho toàn khoá học và cân đối nội dung chương trình đào tạo cho từng năm, từng học kỳ, quy định và cân đối khối lượng (tỷ lệ) giữa lý thuyết và thực hành. Trong Chương trình khung Trung học chuyên nghiệp, thời lượng dành cho thực hành chiếm gần một nửa, cụ thể:
- Khoá 1 năm, thời gian thực hành chiếm 42%.
- Khoá 1,5 năm, thời gian thực hành chiếm 40%.
- Khoá 2 năm, thời gian thực hành chiếm 44%.
- Khoá 3 năm, thời gian thực hành chiếm 44%.
- Khoá 3,5 năm, thời gian thực hành chiếm 49%.
- Khoá 4 năm, thời gian thực hành chiếm 54%.
Căn cứ vào Chương trình khung THCN của Bộ GD&ĐT ban hành các bộ, ngành có trách nhiệm tổ chức xây dựng chương trình khung THCN ngành. Chương trình khung các môn cơ sở, môn chuyên môn và sự phân bố thời gian tương ứng của mỗi môn học trong một ngành đào tạo do các Bộ, ngành xây dựng, biên soạn và ban hành sau khi có sự thoả thuận với Bộ GD&ĐT. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu thực hành của Trung học chuyên nghiệp, vấn đề hiện nay là phải tăng cường chất lượng bằng cách đầu tư thêm thiết bị, nguyên vật liệu và tổ chức tốt việc thực hành, thực tập. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo theo hướng đó.
Cử tri tỉnh Cà Mau và TP. Hồ Chí Minh: “Cử tri kiến nghị ngành Giáo dục có chủ trương giảm tải trong chương trình học của các cấp học, vì thực tế hiện nay học sinh và thầy, cô giáo không được nghỉ ngày thứ bảy theo như quy định là điều không hợp lý; đề nghị quy định cụ thể về thời lượng học tối đa trong tuần đối với học sinh phổ thông”.
Trả lời:
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá IX, ngành giáo dục đã và đang tiến hành việc xem xét, giảm tải một cách hợp lí chương trình, sách giáo khoa và việc tổ chức dạy học sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh cấp tiểu học và trung học cơ sở.
Việc giảm tải đang được xử lý được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Giảm tải phải đảm bảo yêu cầu giáo dục toàn diện. Vì vậy, việc xem xét cắt bỏ một hoặc một số môn học chỉ thực hiện ở một số vùng khó khăn, trong một vài năm trước mắt.
- Giảm tải phải đảm bảo tính hệ thống và đặc thù của từng môn học, cấp học; đồng thời phải đảm bảo tính liên tục, khớp nối giữa các cấp học phổ thông.
- Giảm tải phải đảm bảo sự công bằng trong giáo dục (đáp ứng nhu cầu phát triển của mỗi học sinh, phù hợp với đặc trưng vùng, miền).
Để tiến hành giảm tải, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Trên cơ sở xem xét các vấn đề có thể cắt, giảm trong thời gian trước mắt đối với chương trình tiểu học và THCS tiến hành chuyển một số nội dung vào dạy học tự chọn; đảm bảo thực hiện đúng chuẩn chương trình; tăng thời lượng dành cho địa phương ; ….
- Trên cơ sở xem xét các vấn đề có thể cắt, giảm trong thời gian trước mắt đối với sách giáo khoa tiểu học và THCS tiến hành cắt bỏ một số nội dung không phù hợp; giảm bớt mức độ yêu cầu ở một số nội dung; rà soát các nội dung có liên quan giữa các môn, các lớp để xem xét khả năng lồng ghép, tích hợp; …
- Trên cơ sở xem xét các vấn đề về tổ chức dạy học ở các trường học tiến hành các biện pháp: Ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo dạy học phù hợp với địa phương và đối tượng học sinh; phân phối chương trình mở hơn; giảm bớt các cuộc thi, các hoạt động ngoại khoá; bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho giáo viên, đặc biệt là về đổi mới phương pháp dạy học làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu bài giảng.
Như vậy, việc tiến hành giảm tải đã và đang được xem xét thực hiện về tất cả các khía cạnh: chương trình, sách giáo khoa và tổ chức dạy học.
Riêng về mặt thời lượng thì hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định cụ thể thời lượng học tập trong tuần đối với học sinh từng lớp phổ thông như sau:
- Tiểu học: Lớp 1: 22 tiết/ tuần; Lớp 2: 23 tiết/ tuần; Lớp 3: 23 tiết/ tuần; Lớp 4: 25 tiết/ tuần, Lớp 5: 25 tiết/ tuần
- Trung học cơ sở: Lớp 6: 25 tiết/ tuần; Lớp 7: 27 tiết/ tuần, Lớp 8: 30 tiết/ tuần; Lớp 9: 30 tiết/ tuần
- Trung học phổ thông: Lớp 10: 27 tiết/ tuần; Lớp 11: 28 tiết/ tuần; Lớp 12: 27,5 tiết/ tuần
Kết quả nghiên cứu, khảo sát đã cho thấy: Thời lượng học của học sinh phổ thông Việt Nam hiện nay đã là thuộc loại thấp nhất thế giới( Thời lượng học của học sinh các nước có nền giáo dục phát triển gấp hơn 2 lần thời lượng học của học sinh Việt Nam; thời lượng học của học sinh các nước trong khu vực gấp khoảng 1,5 lần thời lượng học của học sinh Việt Nam). Vì vậy, không thể cắt giảm hơn nữa thời lượng học tập của học sinh phổ thông nước ta.
Trên đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình bày ý kiến của mình về việc giảm tải. Riêng về đề nghị giáo viên được nghỉ thêm ngày thứ 7 thì không thể thực hiện được vì như vậy buộc học sinh phải học thêm giờ vào 5 ngày khác, ảnh hưởng đến sức khoẻ và chất lượng học tập của học sinh. Vì vậy, Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn các địa phương sắp xếp để giáo viên Trung học cơ sở và Trung học phổ thông được nghỉ 2 ngày trong tuần.
Cử tri tỉnh Lạng Sơn: “Về chương trình dạy các môn học tự chọn: với điều kiện cụ thể như Lạng Sơn mà đưa chương trình vào thực hiện ngay thì gặp nhiều bất cập như cơ sở vật chất không đảm bảo; vì không có thời gian nên nhà trường buộc phải dạy thêm ngoài giờ; về mức thù lao cho giáo viên dạy tự chọn, do vậy đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ nên khoanh vùng thực hiện ở một số địa phương có điều kiện kinh tế phát triển.
Trả lời:
Thực hiện mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông quy định trong Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội là “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới”.
Dạy học theo các chủ đề tự chọn là hình thức tổ chức dạy học phân hoá phù hợp với xu thế chung của thế giới nhằm sớm phát hiện năng lực cá nhân và giúp sự định hướng, phát triển của học sinh.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa dạy học theo các chủ đề tự chọn vào kế hoạch giáo dục trường THCS với thời lượng 2 tiết/ tuần từ lớp 8 và lớp 9 với mục tiêu cụ thể: Củng cố, bổ sung và khai thác sâu chương trình các môn học của cấp học; đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của học sinh; rèn luyện tính tích cực, tự giác và khả năng tự học của học sinh.
Để triển khai chủ trương này, Bộ Giáo dục và Đào tạo có văn bản số 7457/ GDTrH ngày 24/ 8/ 2004 hướng dẫn thực hiện dạy học tự chọn trong trường THCS và THPT từ năm học 2004 - 2005. Các trường, các địa phương căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để tổ chức việc dạy học theo các chủ đề tự chọn cho phù hợp.
Đây là hình thức tổ chức dạy học mới, trong những năm đầu tiên các địa phương, các trường có thể gặp nhiều khó khăn, cán bộ quản lí, giáo viên còn chưa quen với cách tổ chức dạy học này. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có kế hoạch để bồi dưỡng cán bộ, giáo viên phương pháp quản lý và dạy học theo các chủ đề tự chọn. Hướng dẫn điều chỉnh thực hiện dạy học theo các chủ đề tự chọn cho phù hợp hơn. Với sự hướng dẫn nói trên, cộng với sự cố gắng của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, chắc chắn các trường của tỉnh Lạng Sơn sẽ dần dần thực hiện tốt việc tổ chức dạy học tự chọn góp phần đáp ứng nguyện vọng của học sinh.
V. VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC Ở VÙNG ĐỒNG BÁO DÂN TỘC, MIỀN NÚI:
Cử tri các tỉnh Hoà Bình, Đăk Lăk: “Đề nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục- Đào tạo có chính sách hỗ trợ cho các tỉnh miền núi mở rộng quy mô xây dựng các trường phổ thông Trung học để tăng khả năng tiếp nhận tối đa lượng học sinh đã tốt nghiệp Trung học cơ sở, hiện nay nhiều trường đã quá tải, số lượng lớp ít và học sinh quá đông”.
Trả lời:
Theo Điều lệ trường trung học ban hành kèm theo Quyết định số 23/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 11/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, tại Điều 10 - Thẩm quyền thành lập trường trung học, đã qui định :" Trường trung học phổ thông do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập sau khi đã thoả thuận bằng văn bản với Bộ Giáo dục và Đào tạo". Như vậy, căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương và qui mô học sinh, các Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hoà Bình và Đăk Lăk có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định thành lập trường mới hoặc mở rộng qui mô trường để tiếp nhận thêm học sinh đồng thời dự toán kinh phí cho việc đầu tư xây dựng các trường để được Bộ Giáo dục và Đào tạo hỗ trợ thêm bằng nguồn kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia GD&ĐT hàng năm. Ngoài kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia GD&ĐT, các tỉnh cần đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để được bố trí thêm nguồn kinh phí XDCB tập trung và huy động nguồn xã hội hoá giáo dục của địa phương để xây dựng mới hoặc mở rộng trường trung học phổ thông.
Cử tri các tỉnh Hoà Bình, Nghệ An, Sơn La, Bắc Kạn, Cao Bằng, An Giang, Lào Cai, Lâm Đồng, Yên Bái: “Đề nghị Nhà nước quan tâm hơn nữa đến việc phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú cũng như trang thiết bị dạy và học để nâng cao trình độ cho con em đồng bào dân tộc. Đối với chính sách cử tuyển, đề nghị cần quan tâm hơn để mở rộng diện được cử tuyển đến con em đồng bào dân tộc thiểu số ở các khu vực thuộc vùng 2 thay vì chỉ cử tuyển khu vực thuộc vùng 3 như hiện nay, đồng thời khi phân bổ chỉ tiêu học sinh cử tuyển các ngành cần căn cứ nhu cầu cán bộ của địa phương, để tránh tình trạng học sinh cử tuyển về địa phương không bố trí được công tác; đồng thời có biện pháp nhằm kiểm tra chặt chẽ đầu vào và nâng cao chất lượng đầu ra của công tác đào tạo học sinh hệ cử tuyển, hiện nay sinh viên các trường cao đẳng, đại học hệ cử tuyển ra trường chất lượng rất thấp. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu để có chương trình, phương pháp giáo dục phù hợp đối với con em vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương nhằm giảm tỷ lệ bỏ học do không theo kịp chương trình”.
Trả lời:
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và 6 năm thực hiện chế độ cử tuyển theo Luật Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở đào tạo mở nhiều lớp riêng hệ cử tuyển, dự bị đại học để đào tạo ở trình độ đại học, cao đẳng, TNCN cho các đối tượng là con em các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, những vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn để phục vụ kịp thời cho sự phát triển kinh tế - xã hội an ninh quốc phòng của các địa phương vùng dân tộc và miền núi. Cụ thể:
a) Về xây dựng các trường Phổ thông dân tộc nội trú và bán trú:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trương tăng cường xây dựng hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBTr); Đến nay, trong toàn quốc đã có 844 trường (Trong đó: Trường PTDTNT cấp TW quản lý: 11 trường; Trường PTDTNT cấp tỉnh: 48 trường; Trường cấp huyện: 266 trường; Trường bán trú cụm xã: 519 trường). Các trường này, hiện nay đang được tiếp tục đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị để phục vụ kịp thời cho công tác giảng dạy, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
b) Đối với hệ đào tạo dự bị đại học:
Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành Qui chế mới theo Quyết định số 09/2005/QĐ-BGD&ĐT-ĐH&SĐH ngày 29/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về "Tuyển chọn, tổ chức đào tạo học sinh hệ dự bị đại học và xét tuyển vào đại học, cao đẳng, THCN"; Qui chế này đã mở rộng và tạo điều kiện phù hợp hơn đối với học sinh dân tộc thiểu số ở các trường dự bị đại học dân tộc. Nhằm nâng cao chất lượng đầu vào, tập trung học 5 môn chính theo các khối A, B, C thay cho trước đây học 9 môn; đối với học sinh chưa đạt được yêu cầu về trình độ văn hoá của năm học dự bị, được học thêm một năm dự bị để tạo điều kiện cho học sinh phấn đấu đạt đủ điều kiện xét tuyển vào các trường ĐH, CĐ, THCN.
Chú trọng và tăng qui mô đào tạo ở 4 trường dự bị đại học dân tộc và trường Phổ thông Dân tộc Vùng cao Việt Bắc, tăng chỉ tiêu đào tạo hệ dự bị đại học từ 1500 học sinh lên 3500 học sinh năm (Năm 2004 tăng hơn năm 2003 là 40%; Năm 2005 tăng hơn năm 2004 là 57%).
c) Về thực hiện chế độ cử tuyển:
Chỉ tiêu hàng năm đều tăng hơn năm trước; năm 2005 sẽ tuyển mới 1770 học sinh, tăng hơn năm 2004 là 36,6%. Số học sinh này được học dự bị một năm trước khi vào học ĐH, CĐ chính thức. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo và hướng dẫn các địa phương xây dựng qui hoạch, kế hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ sau tốt nghiệp; đồng thời căn cứ vào nhu cầu đào tạo thực tế của các địa phương để phân giao chỉ tiêu.
Tháng 3 năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Uỷ ban Dân tộc đã trình Chính phủ cho mở rộng vùng tuyển và các chính sách chế độ đối với học sinh hệ cử tuyển. Cụ thể là:
- Mở rộng vùng tuyển:
+ Đối với học sinh ở các thôn, bản khu vực III nằm trong các xã thuộc khu vực II;
+ Đối với các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ được đào tạo trình độ đại học, cao đẳng so với số dân của dân tộc đó trong phạm vi cả nước thì được tuyển sinh cả 3 khu vực I, II, III.
+ Đối với dân tộc thiểu số tại chỗ, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng rất thấp so với tỷ lệ chung của cộng đồng tại địa phương, được tuyển sinh ở khu vực III và khu vực II.
- Tăng chỉ tiêu cử tuyển từ 1.500 đến 2.500 học sinh/năm.
- Về chế độ chính sách: từ tháng 10/2004, Bộ GD&ĐT đã dự thảo văn bản trình Chính phủ, cho nâng mức học bổng đối với học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số từ 160.000/tháng/1 học sinh lên bằng 80% mức lương tối thiểu theo qui định của Nhà nước, khi mức lương tối thiểu được Nhà nước điều chỉnh, mức học bổng cũng được thay đổi cho phù hợp.
Những chính sách về mở rộng vùng tuyển, đối tượng tuyển chọn, chương trình đào tạo, các chế độ chính sách chính cũng là để tạo điều kiện thuận lợi tốt hơn về điều kiện học tập, sinh hoạt để học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số yên tâm học tập, giảm bớt tình trạng bỏ học do hoàn cảnh kinh tế, do chất lượng học tập kém không theo kịp chương trình.
Để sớm được thực hiện chủ trương trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang khẩn trương phối hợp cùng với các Bộ, Ban, Ngành Cơ quan TW xây dựng Nghị định Chính phủ và Thông tư hướng dẫn về chế độ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; được thực hiện sau khi Luật Giáo dục sửa đổi, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006.
Cử tri các tỉnh Hà Giang, Lào Cai: “Đđề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần kinh phí cho các trường nội trú dân nuôi ở vùng 3, vùng biên giới, mức hỗ trợ bằng với mức học bổng của học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, đầu tư xây dựng nhà ở, hỗ trợ kinh phí mua sắm các vật dụng sinh hoạt, hỗ trợ tiền ăn hoặc học bổng cho học sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở thuộc diện nội trú dân nuôi tại các trường thuộc trung tâm cụm xã hoặc trung tâm cụm thôn, bản”.
Trả lời:
a) Về việc hỗ trợ một phần kinh phí cho các trường nội trú dân nuôi ở vùng 3, vùng biên giới:
Ngày 20/7/2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tờ trình số 6208/TTr-BGD&ĐT gửi Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh, bổ sung mức học bổng cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số đang học tại các trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú với nội dung cơ bản là:
Điều chỉnh mức học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên các trường dự bị dân tộc và phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại khoản 1, điều 1 của Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ từ 160.000 đồng/người/tháng lên bằng 90% mức lương tối thiểu.
Cấp cho học sinh là người dân tộc thiểu số đang học tại các trường phổ thông dân tộc bán trú và cho học sinh thuộc diện học ở trường phổ thông dân tộc nội trú nhưng vẫn học ở trường thường học bổng bằng 50% học bổng học sinh, sinh viên các trường dự bị dân tộc và phổ thông dân tộc nội trú.
Những đề xuất nêu trên của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kế thừa chính sách đối với con em là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc tại các Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001 và Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg ngày 07/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Do ngân sách nhà nước có hạn, Chính phủ chỉ có thể cấp học bổng và có những chính sách hỗ trợ cho học sinh các trường nội trú. Đối với các trường bán trú, nếu dựa vào ngân sách nhà nước thì hiện nay chưa thể tthực hiện các chính sách hỗ trợ cùng mức với trường nội trú. Trước mắt, trong phạm vi từng địa phương, các tỉnh có thể tự cân đối và huy động trong xã hội để giải quyết. trong những năm tới, theo Nghị quyết 05/2005/NQ-CP, nhờ thực hiện chủ trương xã hội hoá, huy động thêm các nguồn lực ngoài ngân sách, Chính phủ có thể điều chỉnh cơ cấu đầu tư về giáo dục, tăng ngân sách giáo dục cho các khu vực khó khăn, khi đó vấn đề do cử tri đề nghị sẽ được giải quyết tốt hơn.
b) Về việc đầu tư xây dựng nhà ở, hỗ trợ kinh phí mua sắm các vật dụng sinh hoạt, hỗ trợ tiền ăn hoặc học bổng cho học sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở thuộc diện nội trú dân nuôi tại các trường thuộc trung tâm cụm xã hoặc trung tâm cụm thôn bản.
Việc xây dựng thêm nhà ở trong các trường phổ thông ở các trung tâm cụm xã để giúp học sinh ở xa có chỗ ở hàng ngày là mô hình tốt, đã được một số địa phương quan tâm thực hiện trong những năm qua. Kinh phí để xây dựng bao gồm các nguồn vốn: xây dựng cơ bản tập trung, kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia, kinh phí từ ngân sách địa phương và nguồn xã hội hoá giáo dục.
Ngày 27/10/2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số 9541/KHTC gửi Uỷ ban Dân tộc và Bộ Tài chính đề nghị có chính sách hỗ trợ xây dựng nhà ở, hỗ trợ kinh phí mua sắm vật dụng sinh hoạt, hỗ trợ tiền ăn hoặc học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số đang theo học tại các trường, lớp nội trú cụm xã (còn gọi là “bán trú dân nuôi”) như nội dung kiến nghị đã nêu. Tại công văn số 14442/TC-HCSN ngày 08/12/2004, Bộ Tài chính đề nghị việc hỗ trợ nói trên phải được xem xét tổng thể và khả năng ngân sách địa phương. Trước mắt hướng thực hiện là căn cứ vào khả năng ngân sách địa phương và điều kiện thực tế hoạt động giáo dục đào tạo tại từng địa bàn để xây dựng mức hỗ trợ trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định. Căn cứ vào ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có các công văn số 4106/KHTC ngày 24/5/2005 và công văn số 5027/KHTC ngày 17/6/2005 gửi Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị hỗ trợ học bổng cho học sinh trường dân tộc nội trú và lớp nội trú dân nuôi.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện dự án hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn giai đoạn 2006-2010 để có điều kiện hỗ trợ cho các địa phương xây dựng nhà ở, hỗ trợ kinh phí mua sắm vật dụng sinh hoạt cho học sinh tiểu học, trung học cơ sở thuộc diện nội trú dân nuôi tại các trường trung tâm cụm xã hoặc trung tâm cụm thôn bản.
Cử tri tỉnh Đắk Lắk: “Mức học bổng tại các trường dân tộc nội trú hiện nay thấp so với giá cả thực tế, đề nghị Chính phủ có sự điều chỉnh cho phù hợp”.
Trả lời:
Trong khi chờ giải quyết tổng thể các chế độ, chính sách đối với học sinh sinh viên là người dân tộc thiểu số học tại các cơ sở đào tạo công lập, để giải quyết khó khăn, trước mắt, ngày 20/7/2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tờ trình số 6208/TTr-BGD&ĐT gửi Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh, bổ sung mức học bổng cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số đang học tại các trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú với nội dung cơ bản là:
- Điều chỉnh mức học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên các trường dự bị dân tộc và phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại khoản 1, điều 1 của Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ từ 160.000 đồng/người/tháng lên bằng 90% mức lương tối thiểu.
- Cấp cho học sinh là người dân tộc thiểu số đang học tại các trường phổ thông dân tộc bán trú và cho học sinh thuộc diện được học ở trường phổ thông dân tộc nội trú nhưng vẫn học ở trường phổ thông khác với mức học bổng bằng 50% học bổng học sinh, sinh viên các trường dự bị dân tộc và phổ thông dân tộc nội trú.
Như vậy, sau khi Chính phủ quyết định phê duyệt, những đề nghị nêu trên của cử tri sẽ được giải quyết một phần.
Cử tri các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Sóc Trăng: “việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở gặp rất nhiều khó khăn vì ở miền núi dân cư sống phân tán, không tập trung, học sinh phải đi học rất xa. Đề nghị đầu tư xây dựng thêm các trường bán trú và nhà ở để những em học sinh ở xa có điều kiện theo học”.
Trả lời:
Đảng, Nhà nước và các ngành chức năng luôn quan tâm và có chính sách ưu tiên đối với vùng nông thôn, miền núi, vùng khó khăn và đặc biệt quan tâm tới học sinh dân tộc. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt cho Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001-2005, trong đó có Dự án Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn. Với kinh phí của dự án này, cùng với nguồn kinh phí XDCB tập trung và các nguồn kinh phí khác, trong những năm qua đã xây dựng được hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, hệ thống trường bán trú, tạo điều kiện cho học sinh miền núi, vùng sâu con em người dân tộc thiểu số có chỗ ở ổn định học tập. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục đề nghị thực hiện Dự án Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, do khả năng ngân sách Nhà Nước có hạn nên ngoài kinh phí Chương trình mục tiêu do ngân sách trung ương cấp, các địa phương cần bổ sung thêm từ ngân sách địa phương và nguồn thu xã hội hoá giáo dục để đầu tư tăng cường qui mô các trường phổ thông dân tộc nội trú, xây dựng thêm các trường bán trú và nhà ở, giúp những học sinh ở xa có điều kiện theo học, thực hiện phổ cập giáo dục THCS.
Cử tri tỉnh Cao Bằng: “Hiện nay, các tỉnh miền núi thiếu rất nhiều giáo viên các bộ môn năng khiếu như: nhạc, hoạ. Đề nghị Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với các tỉnh này trong việc tuyển sinh để có đủ giáo viên cho các trường”.
Trả lời:
Hiện nay, giáo viên nhạc, hoạ, thể dục, tin học... còn thiếu nhiều ở hầu hết các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, trong đó có Cao Bằng.
Về phương hướng giải quyết tình trạng thiếu giáo viên nhạc, hoạ, thể dục:
Đối với những tỉnh đã quan tâm đào tạo giáo viên dạy các môn học trên để trong thời gian không xa có đủ giáo viên cho các trường trung học cơ sở và trường tiểu học, Bộ đề nghị kết hợp cả hai hình thức: đào tạo chính quy, tuyển những học sinh đã tốt nghiệp trung học phổ thông có năng khiếu và tổ chức đào tạo bằng thứ 2 cho các giáo viên dạy môn khác để dạy các môn năng khiếu.
Đối với các tỉnh có dân số không lớn, quy mô trường sư phạm còn nhỏ, không có điều kiện mở khoa sư phạm âm nhạc, mỹ thuật hay thể dục như Cao Bằng nên áp dụng hình thức hợp đồng đào tạo với các trường cao đẳng sư phạm nhạc hoạ TW, các trường cao đẳng, đại học sư phạm thể dục, các khoa sư phạm nhạc, hoạ của các trường ĐHSP, CĐSP của một số địa phương gần.. Trong trường hợp này, Cao Bằng có thể áp dụng hình thức hợp đồng đào tạo như Hà Nội, Lạng Sơn...)
Về chính sách ưu tiên cho việc đào tạo giáo viên dạy các môn học này
- Bộ sẽ tạo điều kiện để đáp ứng yêu cầu về chỉ tiêu đào tạo theo đề nghị của các địa phương.
- Ngoài các chế độ theo quy định chung của nhà nước thì HĐND và UBND các tỉnh nên có quy định các chế độ chính sách của địa phương nhằm thu hút học sinh trung học phổ thông có năng khiếu vào học theo chỉ tiêu được duyệt.
Cử tri tỉnh Cao Bằng: “Đề nghị cần kéo dài thời gian thực hiện QĐ 186 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ phụ cấp cho học sinh, cấp phát vở cho học sinh để học sinh có điều kiện theo học. Đề nghị có thêm trợ cấp cho học sinh dân tộc thiểu số ít người (Mông, Dao, Sán Chỉ, Lô Lô…) bậc tiểu học”.
Trả lời:
Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ như miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường sở, cấp sách và học phẩm cho học sinh dân tộc thiểu số không thu tiền. Ngày 20/7/2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tờ trình số 6208/TTr-BGD&ĐT gửi Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh, bổ sung mức học bổng cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số đang học tại các trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú với nội dung cơ bản là:
- Điều chỉnh mức học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên các trường dự bị dân tộc và phổ thông dân tộc nội trú được quy định tại khoản 1, điều 1 của Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ từ 160.000 đồng/người/tháng lên bằng 90% mức lương tối thiểu.
- Cấp cho học sinh là người dân tộc thiểu số đang học tại các trường phổ thông dân tộc bán trú và cho học sinh thuộc diện học ở trường phổ thông dân tộc nội trú nhưng vẫn học ở trường phổ thông khác với mức học bổng bằng 50% học bổng học sinh, sinh viên các trường dự bị dân tộc và phổ thông dân tộc nội trú.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã hội xem xét kiến nghị với Chính phủ có chính sách trợ cấp cho học sinh dân tộc thiểu số ít người (Mông, Dao, Sán chỉ, Lô Lô...) bậc tiểu học. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng ủng hộ kiến nghị kéo dài thời gian thực hiện các chính sách về giáo dục - đào tạo đối với vùng Tây Nguyên và 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc tại Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001 và Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg ngày 07/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Cử tri tỉnh Lạng Sơn: “Đề nghị tăng cường đào tạo hệ trung học phổ thông ở vùng sâu vùng xa để đảm bảo lực lượng cán bộ tại chỗ. Về lệ phí: cần thu thêm để đảm bảo nước uống, điện thắp sáng để đảm bảo các hoạt động của nhà trường. Có những trường ở vùng sâu, vùng xa được miễn học phí nhưng không có nguồn kinh phí cấp bổ sung nên rất khó khăn cho việc đảm bảo các hoạt động dạy và học của nhà trường”.
Trả lời:
a) Về tăng cường đào tạo hệ THPT ở vùng sâu, vùng xa để đảm bảo lực lượng cán bộ tại chỗ.
Nhiều năm qua, Bộ GD&ĐT đã thực hiện chính sách khuyến khích huy động học sinh vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ra học trung học phổ thông để nâng cao dân trí, đảm bảo nguồn cung cấp cho lực lượng cán bộ tại chỗ. Cụ thể:
- Mở rộng hệ thống trường dân tộc nội trú huyện để tạo nguồn tuyển cho học sinh trung học phổ thông. Tốc độ tăng hàng năm trung bình khoảng 8,5%.
- Mở rộng mạng lưới trường nội trú dân nuôi: học sinh trung học cơ sở dân nuôi mỗi năm tăng khoảng 13.000 học sinh, chủ yếu tập trung vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa. Bộ GD&ĐT đang trình Chính phủ và các cơ quan liên quan chính sách hỗ trợ học bổng (hàng tháng khoảng 40% mức lương tối thiểu).
- Thực hiện chế độ cử tuyển.
- Đối với trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh đã thu hút học sinh dân tộc thiểu số, học sinh vùng sâu vùng xa theo học trung học phổ thông để tạo nguồn cán bộ người cán bộ người địa phương.
- Năm qua tỷ lệ huy động số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở ra học trung học phổ thông ở các tỉnh miền núi tăng mạnh hơn các tỉnh đồng bằng và vượt xa độ tăng trung bình của cả nước. Cụ thể, tốc độ tăng của các tỉnh miền núi 3 năm qua là 3,72 %/năm trong khi của toàn quốc là 1,37%/năm.
Tuy đã có cố gắng như trên, nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng thấy rằng, giáo dục trung học phổ thông vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của đồng bào cư trú tại các địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn. Các HĐND và UBND các cấp cần quan tâm, dành ưu tiên về chỉ đạo và đầu tư để phát triển giáo dục trung học và giáo dục nói chung đối với địa bàn kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn.
b) Về lệ phí cần thu thêm để đảm bảo nước uống, điện thắp sáng để đảm bảo các hoạt động của nhà trường.
Theo Luật Giáo dục các trường phổ thông chỉ được thu học phí và lệ phí tuyển sinh. Trong đó học phí phải góp phần bảo đảm chi phí cho các hoạt động giáo dục. Mức thu học phí đối với giáo dục phổ thông do HĐND tỉnh quy định Vì vậy, khi xây dựng mức thu học phí, HĐND tỉnh cần tiếp thu ý kiến của cử tri đề nghị thu thêm để đảm bảo nước uống, điện thắp sáng để đảm bảo các hoạt động của nhà trường.
c) Về việc có những trường ở vùng sâu, vùng xa được miễn học phí nhưng không có nguồn kinh phí cấp bổ sung nên rất khó khăn cho việc đảm bảo các hoạt động dạy và học của nhà trường.
Đối với các trường ở vùng sâu, vùng xa đang được hưởng một số chế độ ưu tiên như sau:
- Về bố trí ngân sách chi thường xuyên: Thực hiện quyết định số 139/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước, theo đó từ năm 2004, ngân sách chi sự nghiệp giáo dục được phân bổ theo dân số trong độ tuổi đến trường từ 1 đến 18 tuổi thì mức phân bổ kinh phí cho vùng sâu, vùng xa cao hơn:
+ Đô thị: 355.450. đồng/người dân/năm
+ Đồng bằng: 390.995. đồng/người dân/năm
+ Núi thấp-vùng sâu 426.540. đồng/người dân/năm
+ Núi cao-hải đảo 604.265. đồng/người dân/năm
- Về chương trình mục tiêu quốc gia:
Chính phủ đã dành riêng Dự án hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn, ngoài ra đối với Chương trình Kiên cố hoá trường lớp học, suất đầu tư cho các vùng khó khăn cũng được ưu tiên hơn:
Ở mức cao nhất với 110 triệu đồng/phòng học (áp dụng cho 7 tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên và 5 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang).
Tuy vậy, việc ưu tiên trên cũng chưa thoả đáng so với yêu cầu của sự phát triển giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục nghiên cứu để trình với Chính phủ có những chính sách ưu tiên đủ mạnh để giúp các địa phương còn khó khăn để phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục.
Cử tri tỉnh Tây Ninh: “Dân tộc Chăm sinh sống ở ấp Tân Trung, xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh được công nhận là ấp vùng III. Đến tháng 8/1998 do điều chỉnh địa giới hành chính cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, ấp Tân Trung được chia thành 2 ấp là Tân Trung A và Tân Trung B. Nhưng hiện nay con em dân tộc của ấp Tân Trung A đi học Đại học thì được hưởng chế độ miễn học phí còn con em dân tộc của ấp Tân Trung B thì không được hưởng chế độ này. Đề nghị Vụ, Uỷ ban xem xét điều chỉnh tạo sự công bằng cho con em đồng bào dân tộc thiểu số”.
Trả lời:
Quyết định số 70/198/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” và Thông tư liên tịch số 54/1998/TTLT/BGD&ĐT-TC ngày 31/8/1998 của Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Tài chính “Hướng dẫn thực hiện thu, chi và quản lý học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” đã quy định rõ đối tượng miễn học phí, trong đó có “Học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại vùng cao miền núi (trừ thành phố, thị xã, thị trấn) và vùng sâu, hải đảo”.
Việc xác định địa bàn để thực hiện chính sách miễn học phí nêu trên căn cứ danh mục các xã được Uỷ ban Dân tộc công nhận là miền núi, vùng cao, vùng dân tộc đồng bằng tại các Quyết định số 21/UB-QĐ ngày 26/01/1993, số 33/UB-QĐ ngày 04/6/1993, số 08/UB-QĐ ngày 04/3/1994, số 64/UB-QĐ ngày 26/8/1995, số 42/UB-QĐ ngày 23/5/1997, số 68/UB-QĐ ngày 09/8/1997, số 26/1998/QĐ-UB ngày 18/3/1998, số 21/1998/QĐ-UBDT&MN ngày 25/02/1998 và số 363/2005/QĐ-UBDT ngày 15/8/2005. Theo đó, việc chia tách ấp trong xã không làm thay đổi đối tượng thực hiện chính sách miễn học phí.
VI. VỀ VẤN ĐỀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC
Cử tri các tỉnh Ninh Bình, Tiền Giang, Hà Tây, Quảng Trị: “Hiện nay vấn đề cải cách giáo dục đang được xã hội đặc biệt quan tâm, vừa qua Bộ Giáo dục và đào tạo đã có nhiều cố gắng trong lộ trình thực hiện cải cách giáo dục, Nhà nước và xã hội cũng dành nhiều tâm sức và kinh phí vào vấn đề này. Tuy vậy các mục tiêu cải cách, chương trình cải cách vẫn không sát với cuộc sống, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chấm dứt tình trạng cải cách không triệt để, thiếu thực tế, học giả, thi thật chạy theo thành tích gây lãng phí tiền của của Nhà nước; nghiên cứu kỹ hơn các đề án cải cách trước khi đưa vào áp dụng để hạn chế sai sót...”
Trả lời:
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện những giải pháp để hoàn thiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sát hợp hơn với cuộc sống và đáp ứng hơn yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cụ thể là nghiên cứu điều chỉnh phương án phân ban ở THPT; cải tiến tổ chức thi đại học; cải tiến công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; thực hiện đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai đề án dạy học tin học và ứng dụng công nghệ thông tin vào các cơ sở giáo dục, trang bị thiết bị dạy học và phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học; xây dựng chuẩn chương trình, chuẩn giáo viên, chuẩn thiết bị, ...; đổi mới công tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục v.v...Những chủ trương của ngành cộng với nỗ lực của đội ngũ giáo viên trong cả nước đang tạo ra những chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Đối với những tiêu cực mà bà con đang lo lắng, trong mấy năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có những giải pháp khắc phục như cải tiến ra đề thi, chấn chỉnh công tác dạy học nhằm đảm bảo chuẩn, khắc phục tình trạng học giả thi thật, bệnh thành tích gây lãng phí cho Nhà nước.
Các đề án đổi mới nêu trên đều được tổ chức thí điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm qua thí điểm để có những điều chỉnh hợp lí trước khi đưa ra triển khai trong toàn quốc, tránh những sai sót, đảm bảo tính khả thi. Như vậy đổi mới là quá trình triển khai rộng lớn trên cơ sở khẳng định những mặt tốt, điều chỉnh những thiếu sót, phải tiếp tục kiên trì để đạt kết quả theo phương hướng chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
Cử tri tỉnh Hà Nam: “Những năm gần đây ngành giáo dục liên tục đổi mới và cải cách chương trình giảng dạy, sách giáo khoa sửa đổi liên tục, các địa phương có nhiều cố gắng để tổ chức, bồi dưỡng nội dung chương trình mới cho giáo viên; nhưng thay đổi quá nhiều làm cho các thày cô giáo không tiếp cận đủ hết kiến thức mới nên chất lượng giảng dạy gặp nhiều khó khăn, không đáp ứng được yêu cầu dạy và học trong nhà trường hiện nay”.
Trả lời:
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và Chỉ thị 14/2001/CT-TTg của Chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, bắt đầu từ năm học 2002 -2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức triển khai thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới.
Đối với hệ thống giáo dục, chương trình mới này thay thế chương trình cải cách triển khai cách đây 20 năm. Như vậy, không phải là ngành giáo dục thay sách thường xuyên. Trong 20 năm qua, có một số cuốn sách giáo khoa phải chỉnh lý (về lịch sử, chính trị, địa lý) vì cần bảo đảm tính chính xác so với những biến động trên thế giới.
Hiện nay, bước đầu tiếp cận với chương trình, sách giáo khoa mới, một số giáo viên có phần lúng túng trong phương pháp truyền thụ, hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, tình hình này đang được khắc phục nhanh chóng. Bởi vì sách giáo khoa mới được tổ chức biên soạn theo một quy trình chặt chẽ, nghiêm túc, công phu, lại được dạy thử nghiệm qua thực tế ở nhiều địa phương, lấy ý kiến rộng rãi để chỉnh lý nên đảm bảo chất lượng tốt, được đông đảo giáo viên, học sinh và dư luận xã hội đón nhận. Đồng thời, trước khi dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới, giáo viên đều được bồi dưỡng về nội dung và phương pháp giáo dục mới. Việc bồi dưỡng tiếp tục được thực hiện trong năm. Như vậy, chất lượng giảng dạy của giáo viên sẽ tăng dần.
VII. VỀ CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Cử tri các tỉnh Bình Phước, Phú
Trả lời:
a) Về tăng cường cán bộ phụ trách thí nghiệm thực hành:
Để đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới ở phổ thông, ngày 28/7/2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 22/2004/TT-BGD&ĐT hướng dẫn về loại hình giáo viên, cán bộ nhân viên các trường phổ thông, trong đó nêu rõ; ngoài loại hình giáo viên làm công tác giảng dạy các bộ môn, trong trường phổ thông còn có loại hình cán bộ nhân viên làm công tác phục vụ giảng dạy, gồm có: cán bộ thư viện, thiết bị, thí nghiệm, y tế trường học, nhân viên văn thư, kế toán, thủ quỹ vv…
Để có đội ngũ cán bộ, nhân viên nói trên, đồng thời với việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm đảm bảo đội ngũ giáo viên có đủ số lượng và cân đối về cơ cấu, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trong quá trình sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đối với giáo viên chưa đạt chuẩn đào tạo nhưng có đủ sức khỏe, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn và còn trong độ tuổi đào tạo có thể tiếp tục cho đi đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ thiết bị, thí nghiệm, thư viện để đáp ứng yêu cầu thiếu lọai hình cán bộ nhân viên làm công tác phục vụ giảng dạy theo yêu cầu đổi mới của chương trình, sách giáo khoa mới.
Sở Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn và chỉ đạo các trường phổ thông ký hợp đồng làm việc với loại hình cán bộ, nhân viên còn thiếu để đảm bảo dạy đủ các môn ghi trong kế hoạch giáo dục đảm bảo có đủ cán bộ, nhân viên.
Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm việc với Bộ Nội vụ để xây dựng Thông tư liên Bộ số 34/2004/TTLB/ BGD&ĐT-BNV ngày 05/10/2004 của Giáo dục và Đào tạo-Bộ Nội vụ về tăng cường biên chế giáo viên phụ trách công tác thiết bị giáo dục, tuy nhiên do có một số khó khăn nên Thông tư liên Bộ trên chưa được thực hiện. Bộ GD&ĐT đang tiếp tục phối hợp với Bộ Nội vụ trình Chính phủ phương án giải quyết về biên chế giáo viên phụ trách công tác thiết bị trong trường phổ thông.
b) Về cơ sở vật chất để triển khai thiết bị:
Theo quy định hiện hành, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trường học do địa phương đảm nhiệm.
Nguồn chi của các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình kiên cố hoá trường lớp học nhằm xoá phòng học 3 ca, xoá nhà tạm tranh tre nứa lá cũng chỉ là hỗ trợ các địa phương góp phần đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất trường học (trong đó có phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, phòng thực hành..) phục vụ dạy và học cho con em ở các địa phương.
Trong khi khả năng ngân sách nhà nước có hạn, chính quyền địa phương các cấp cần huy động mọi nguồn lực, mọi nguồn vốn đầu tư cho giáo dục theo tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.
c) Về việc mua sắm thiết bị đủ số lượng và đảm bảo chất lượng:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các sở GD&ĐT tham mưu với UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bổ sung thêm kinh phí để mua đủ thiết bị dạy học vì kinh phí Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần (đa số các tỉnh được hỗ trợ 50% nhu cầu kinh phí, một số tỉnh được hỗ trợ 70%. Các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây nguyên được hỗ trợ 100%, 9 tỉnh có điều kiện kinh tế cao, địa phương tự thu xếp 100%). Dựa vào tiêu chuẩn kỹ thuật của bộ mẫu thiết bị do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, các địa phương có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ chất lượng thiết bị khi mua và cung ứng kịp thời dến các trường học để phục vụ năm học mới. Việc mua sắm thiết bị do địa phương thực hiện căn cứ vào các Nghị định của Chính phủ về mua sắm đấu thầu và do UBND tỉnh, thành phố trung ương trực tiếp chỉ đạo.
d) Về kế hoạch đào tạo, bố trí công việc cho phù hợp với một số bộ phận giáo viên không đủ trình độ giảng dạy.
Tại quyết định 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/1/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” đã yêu cầu các địa phương tập trung tổ chức khảo sát trình độ đội ngũ giáo viên, đề xuất các phương án sử dụng hợp lý đội ngũ này, trong đó chú trọng biện pháp giải quyết số giáo viên không đủ trình độ giảng dạy. Cụ thể:
- Bố trí đào tạo lại hoặc bồi dưỡng những người không đủ trình độ chuyên môn để họ có đủ năng lực tiếp tục tham gia giảng dạy.
- Với những người sau khi học bồi dưỡng hoặc được đào tạo lại nhưng cũng vẫn không đủ năng lực giảng dạy (ước tính 5%) thì:
+ Chuyển sang công việc khác trong trường học (như làm nhân viên văn phòng, phụ tá thí nghiệm...) hoặc cơ quan khác nếu có nhu cầu.
+ Cho nghỉ theo chế độ quy định của nhà nước.
Đề án đã lập dự trù ngân sách để trình Chính phủ phê duyệt nhằm có đủ kinh phí đào tạo lại hoặc bồi dưỡng, kinh phí giải quyết chế độ cho những người sẽ bố trí nghỉ trước tuổi về hưu.
Tuy nhiên, đây là vấn đề nhạy cảm, nên mọi việc cần tiến hành thận trọng và cần tạo được sự đồng tình của toàn ngành, của Quốc hội, của toàn thể nhân dân và xã hội.
Cử tri các tỉnh Cao Bằng, Quảng
Trả lời:
1. Về chương trình kiên cố hoá trường lớp học:
Chương trình Kiên cố hoá trường, lớp học được thực hiện theo Quyết định số 159/2002/QĐ-TTg ngày 15-11-2002 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu xoá phòng học 3 ca, phòng học tạm thời tranh tre nứa lá. Chương trình được thực hiện bằng các nguồn vốn sau:
- Ngân sách Trung ương hỗ trợ các địa phương.
- Ngân sách địa phương hàng năm.
- Huy động đóng góp tự nguyện bằng nhiều hình thức của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước.
Để có nguồn vốn hỗ trợ các địa phương thực hiện Chương trình, năm 2003, Chính phủ đã phát hành công trái giáo dục với số tiền huy động được là 2.578 tỷ đồng. Thủ tướng Chính phủ đã phân bổ hết số kinh phí trên cho các địa phương.
Sau 2 năm rưỡi triển khai thực hiện, tính đến cuối tháng 7/2005, Chương trình đã đạt được kết quả như sau:
- Số phòng học đã triển khai xây dựng là 43.086 phòng, chiếm tỷ lệ 72,3% so với tổng số phòng học cần xây dựng là 59.572 phòng. Trong đó có 34.858 phòng học đã hoàn thành đưa vào sử dụng.
- Tổng số vốn đã huy động để thực hiện Chương trình là: 3.741, 265 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách TW hỗ trợ là 2.578,085 tỷ đồng, ngân sách của các địa phương là 971,454 tỷ đồng, huy động từ các nguồn khác là 191,726 tỷ đồng.
- Đến hết tháng 7/2005, theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước Trung ương, các địa phương đã giải ngân được hơn 2.565 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 99,52% số vốn Trung ương hỗ trợ từ nguồn công trái giáo dục đợt 1 năm 2003.
Các địa phương đều đã có nhiều cố gắng trong việc triển khai thực hiện Chương trình (một số tỉnh đã hoàn thành mục tiêu, một số tỉnh còn chậm), nhưng nhìn chung tiến độ còn chậm so với yêu cầu của Chương trình.
Theo Quyết định số 159/2002/QĐ-TTg ngày 15-11-2002 của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc TW chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo, triển khai, kiểm tra thực hiện Chương trình trên địa bàn.
Để tạo điều kiện cho các địa phương tiếp tục, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình và hoàn thành Chương trình vào cuối năm 2005 hoặc 6 tháng đầu năm 2006 (đối với các tỉnh có nhiều khó khăn), Chính phủ đã phát hành tiếp đợt công trái giáo dục năm 2005 với tổng số tiền huy động được là 2.700 tỷ đồng. Số kinh phí này đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định phân bổ cho các địa phương trong tháng 7/2005, đồng thời Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 27/2005/CT-TTg ngày 22/7/2005 về việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình Kiên cố hoá trường, lớp học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, với trách nhiệm của cơ quan thường trực Chương trình, cũng đã ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc các địa phương đẩy nhanh tiến độ, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra việc triển khai thực hiện Chương trình ở các địa phương. Trong tháng 4/2005 và tháng 5/2005, Bộ đã tổ chức hội nghị bàn biện pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình các tỉnh phía Bắc tại Hà Nội và các tỉnh phía
Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ: Tài chính, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành kiểm tra được trên 50 tỉnh trong việc thực hiện Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học. Tại một số địa phương có tiến độ xây dựng chậm, công trình xây dựng chưa đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của chương trình kiên cố hoá trường lớp học, đoàn kiểm tra đã góp ý và phê bình ngay trong đợt kiểm tra. Sau khi kiểm tra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản gửi UBND các tỉnh trên yêu cầu các địa phương rút kinh nghiệm và chấn chỉnh kịp thời những sai sót nhằm thực hiện đúng mục tiêu của Chương trình đã được Chính phủ phê duyệt.
2. Về yêu cầu cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo viên và học sinh, nhất là đối với các trường vùng cao, vùng sâu, vùng xa
Hằng năm, trong dự toán ngân sách giáo dục đã bao gồm kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy học phục vụ cho việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, khi xây dựng dự toán Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề xuất để có sự hỗ trợ đặc biệt cho các vùng cao, vùng sâu, vùng xa do điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và nguồn thu của địa phương có rất ít, NSNN phải hỗ trợ toàn bộ chi của địa phương.
Bộ Tài chính đã phân bổ nguồn NSNN cho các địa phương với tỷ lệ hỗ trợ khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và nguồn thu của địa phương, có địa phương phải tự chi 100% ngân sách để thực hiện chương trình này (các tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, Hải Phòng...).
Tuy nhiên, yêu cầu của ngành giáo dục rất lớn, khả năng NSNN có hạn, nên các địa phương cần chủ động bố trí NSNN được cấp kết hợp với huy động các nguồn vốn khác bổ sung cho việc mua thiết bị dạy học, đồng thời khuyến khích giáo viên và học sinh tự làm thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Cử tri tỉnh Thái Nguyên: “Đề nghị Trung ương hỗ trợ nguồn vốn để tỉnh triển khai thực hiện xây dựng trường, cơ sở vật chất phục vụ học tập của 5 trường THPT đã quyết định thành lập; nâng suất đầu tư xây dựng phòng học trong chương trình xoá phòng học tạm và có cơ chế hỗ trợ đầu tư xây dựng phòng họp đáp ứng chương trình xây dựng đổi mới giáo dục”.
Trả lời:
Về đề nghị hỗ trợ vốn xây dựng 5 trường THPT mới thành lập:
Theo quy định hiện hành, hằng năm Bộ Tài chính cân đối và giao dự toán thu chi ngân sách cho mỗi tỉnh, trong đó có phần chi cho giáo dục và đào tạo, bao gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi chương trình mục tiêu quốc gia. Như vậy, việc phân bổ vốn đầu tư cho các dự án thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh trên cơ sở cân đối nguồn thu và nhiệm vụ chi trên địa bàn. Ngành giáo dục đào tạo tỉnh Thái Nguyên cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh, báo cáo với UBND tỉnh để được cân đối kế hoạch vốn đầu tư cùng các nguồn vốn hợp pháp khác để xây dựng cơ sở vật chất cho 5 trường THPT mới thành lập.
Về đề nghị suất đầu tư xây dựng phòng học:
Qua thực tế triển khai thực hiện Chương trình kiên cố hoá trường lớp học, theo đề nghị của các địa phương và thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ: Xây dựng, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư tiến hành khảo sát tại chân công trình ở một số tỉnh đại diện cho các vùng miền để xác định đơn giá xây dựng bình quân, làm cơ sở cho việc trình Thủ tướng Chính phủ nâng suất đầu tư xây dựng đối với các phòng học.
Theo đề nghị của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận cho phép nâng mức hỗ trợ xây dựng các phòng học theo 3 mức là: 110 triệu đồng/phòng học, 90 triệu đồng/phòng học, 70 triệu đồng/phòng học, làm cơ sở để phân bổ kế hoạch hỗ trợ nguồn thu từ phát hành công trái giáo dục năm 2005 cho các địa phương thực hiện mục tiêu xoá phòng học 3 ca, phòng học tạm thời tranh tre nứa lá.
Tại Quyết định số 173/2005/QĐ-TTg ngày 13/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Thái Nguyên được hưởng mức hỗ trợ là 90 triệu đồng/phòng học và tỷ lệ hỗ trợ là 80% - với mức phân bổ và tỷ lệ hỗ trợ này, tỉnh Thái Nguyên được Thủ tướng Chính phủ phân bổ hỗ trợ tiếp là 29,792 tỷ đồng để hoàn thành mục tiêu xoá phòng phòng học tạm thời tranh tre nứa lá của tỉnh theo số liệu đã báo cáo tháng 8/2002.
Cử tri các tỉnh Phú Thọ, Đăk Lăk: “Qua một số năm sử dụng thiết bị, nhiều trường học phản ánh chất lượng thiết bị dạy học chưa tốt, chưa đáp ứng được nhu cầu thực hành. Đề nghị Bộ Giáo dục và đào tạo chú trọng hơn việc nâng cao chất lượng thiết bị và cung ứng kịp thời cho việc dạy và học ngay từ đầu năm học, đồng thời có kế hoạch bổ sung những thiết bị hàng năm; đặc biệt bổ sung tranh ảnh phục vụ giảng dạy còn thiếu nhiều như môn Văn, Sử, Địa, tiếng Anh cấp THCS học chương trình SGK mới”.
Trả lời:
Thực tế trong những năm vừa qua, ở một số địa phương đã có một số thiết bị dạy học chưa đảm bảo chất lượng theo bộ mẫu chuẩn như ý kiến của cử tri đã nêu. Để tránh tình trạng thiết bị khi cung ứng chưa tốt, Bộ GD&ĐT đã triển khai thẩm định, phê duyệt Bộ mẫu chuẩn và tổ chức chuyển giao cho các doanh nghiệp có chức năng và khả năng sản xuất thiết bị thuộc mọi thành phần kinh tế triển khai sản xuất theo mẫu và tổ chức cung ứng cho các địa phương (năm 2004-2005 có 47 doanh nghiệp, năm 2005-2006 có 69 doanh nghiệp). Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với UBND tỉnh hướng dẫn, chỉ đạo các sở tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát thiết bị trong quá trình mua sắm. Đặc biệt, phải dựa vào tiêu chuẩn kỹ thuật của bộ mẫu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Bộ mẫu này đã được cung cấp cho các sở và phòng giáo dục và đào tạo các huyện để làm căn cứ đối chiếu trong quá trình mua, nghiệm thu và bàn giao thiết bị.
Để bảo đảm yêu cầu về số lượng và tiến độ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo các địa phương xây dựng kế hoạch và dự trù kinh phí mua sắm thiết bị, huy động các nguồn kinh phí khác để đảm bảo có đủ số lượng và chủng loại thiết bị theo quy định và kịp thời gian theo tiến độ năm học. Phần tranh ảnh trong danh mục thiết bị là số lượng tối thiểu để đảm bảo bài học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu các Sở GD&ĐT phát động phong trào tự làm, sưu tầm thiết bị dạy học để làm phong phú thêm bài giảng cũng như tiết kiệm nguồn ngân sách địa phương để giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của giáo dục địa phương và nâng cao chất lượng giáo dục.
Đồng thời với việc chỉ đạo bằng văn bản, Bộ GD&ĐT cũng đã tổ chức tập huấn, hội thảo và triển lãm tại TP Hà Nội, TP HCM có sự tham gia của đại biểu UBND, sở GD-ĐT các tỉnh, các doanh nghiệp sản xuất thiết bị dạy học và khẳng định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tổ chức sản xuất thiết bị đúng chất lượng, cung cấp thiết bị đúng tiến độ, đủ số lượng cho các sở GD-ĐT theo hợp đồng kinh tế. Tạo ra môi trường thuận lợi, công khai nghiêm túc giữa người mua (các địa phương) và người bán (các DN). Như vậy, công tác thiết bị sẽ có sự giám sát, kiểm tra ở tất cả các khâu từ sản xuất, cung ứng đến nghiệm thu và bàn giao thiết bị.
Cử tri tỉnh Long An: “Đề nghị Chính phủ sớm phân bổ vốn cho chương trình kiên cố hoá trường lớp vì hiện nay tỉnh chỉ mới nhận được 47/77 tỷ do đó không đáp ứng được yêu cầu của địa phương; điều chỉnh mức đầu tư 60 triệu đồng/ phòng học vì mức này không còn phù hợp với giá vật tư, chi phí vận chuyển”.
Trả lời:
Qua thực tế triển khai thực hiện Chương trình và đề nghị của các địa phương, thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các Bộ: Xây dựng, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư tiến hành khảo sát tại chân công trình ở một số tỉnh đại diện cho các vùng miền để xác định đơn giá xây dựng bình quân, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định nâng mức hỗ trợ xây dựng các phòng học theo 3 mức là: 110 triệu đồng/ phòng học 90 triệu đồng/ phòng học; 70 triệu đồng/ phòng học. Đây là cơ sở để Chính phủ phân bổ kế hoạch hỗ trợ từ nguồn thu phát hành công trái giáo dục năm 2005 cho các địa phương thực hiện mục tiêu xoá phòng học 3 ca, phòng học tạm thời tranh tre nứa lá.
Tại Quyết định số 173/2005/QĐ-TTg ngày 13/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Long An được hưởng mức hỗ trợ là 110 triệu đồng/ phòng học và tỷ lệ hỗ trợ là 100%. Với mức phân bổ và tỷ lệ hỗ trợ này, tỉnh Long An được Thủ tướng Chính phủ phân bổ hỗ trợ tiếp là 73,010 tỷ đồng. Như vậy tổng số vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ cho tỉnh Long An là 120,340 tỷ đồng để hoàn thành mục tiêu xoá phòng học tạm thời tranh tre nứa lá mà tỉnh đã báo cáo tháng 8/2002.
Cử tri các tỉnh Bình Định, Thái Nguyên: “Kiến nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét tăng kinh phí đầu tư cho hệ giáo dục mầm non để có nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập và chi phụ cấp lương cho giáo viên, đồng thời đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao chất lượng giáo dục ngay từ cấp học này. Mặt khác, cần xem xét đưa các trường mầm non ở các xã bãi ngang vào hệ công lập như các xã đặc biệt khó khăn, nhằm tạo điều kiện phát triển giáo dục mầm non tại các địa phương này”.
Trả lời:
Trong nhiều năm giáo dục mầm non chỉ được đầu tư ở mức thấp. Ngân sách cho GDMN chỉ dao động từ 3,2% (1993) đến 5,4% (1999) trong tổng ngân sách thường xuyên giáo dục MN và GD phổ thông. Trong ngân sách xã, GDMN không được coi trọng như điện, đường, trường (tiểu học và trung học), trạm. ở một số địa phương nên trong chương trình mục tiêu, kể các chương trình kiên cố hoá trường học chưa dành ngân sách đúng mức cho GDMN. Từ năm 2002, ngân sách hàng năm dành cho MN được quy định ít nhất 10% ngân sách giáo dục, nhưng hiện tại mới chỉ có 18 tỉnh thực hiện được, vẫn còn 17 tỉnh chỉ chi từ 5-7%, trong khi đó, nhiều tỉnh, thành phố đã không kịp bố trí ngân sách chương trình mục tiêu.
Việc đầu tư kinh phí cho giáo dục mầm non như vậy chưa tương xứng với yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, đặc biệt là kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập. Theo phân cấp ngân sách hiện nay, việc đầu tư cho giáo dục mầm non do ngân sách địa phương đảm nhận là chủ yếu, nhưng nhiều địa phương chưa thực hiện được do khả năng ngân sách rất hạn chế. Để giải quyết vấn đề kinh phí cho giáo dục mầm non, các địa phương phải thực hiện giải pháp xã hội hoá để xây dựng trường, lớp và giải quyết thu nhập cho giáo viên mầm non ngoài biên chế. Xã hội hoá mang lại nhiều lợi thế cho GDMN, hiện nay GDMN ngoài công lập chiếm tỷ lệ cao: trên 57,51% số trường và 59% số trẻ ra lớp. Tuy nhiên, đối với các vùng khó khăn thì khả năng đóng góp của dân là có hạn. Để khắc phục vấn đề này và đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 05/2005/NQ-CP, Chính phủ đã có chủ trương điều chỉnh cơ cấu đầu tư, dùng ngân sách nhà nước tập trung ưu tiên đầu tư cho một số lĩnh vực như giáo dục phổ cập, hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc v.v. Theo chủ trương này, giáo dục mầm non ở các vùng khó khăn sẽ là đối tượng được Chủ tịch UBND tỉnh quyết định bố trí ngân sách theo hướng dẫn của mục 5.1 và mục 8.5 trong Thông tư Liên tịch 05/2003/TTLT/ BGD&ĐT-BNV-BTC; đối với các tỉnh tỷ lệ đầu tư cho GDMN còn thấp cần phấn đấu đạt mục tiêu “dành tối thiểu 10% tổng chi ngân sách Nhà nước về giáo dục cho giáo dục mầm non”.
Để giải quyết một cách cơ bản cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non, tạo điều kiện nâng cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ đáp ứng yêu cầu của nhân dân, nhất là ở địa bàn đặc biệt khó khăn và các vùng khác nhau, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang cố gắng tìm nguồn kinh phí để xây dựng được dự án lớn hoặc chương trình, mục tiêu đầu tư cho giáo dục mầm non.
Các xã thuộc địa bàn, khu vực bãi ngang của một số tỉnh ven biển thực sự có nhiều khó khăn, song chưa được đưa vào danh mục các xã đặc biệt khó khăn để thực hiện chương trình 135 của Thủ tướng Chính phủ, mặc dù vậy nhiều tỉnh đã xem xét và bổ sung số xã này vào danh sách các xã khó khăn của tỉnh và áp dụng cơ chế 135 bằng ngân sách địa phương. Bộ Giáo dục và Đào tạo hoan nghênh và ủng hộ những cố gắng đó của địa phương, đồng thời sẽ bàn bạc với Uỷ ban Dân tộc về vấn đề này.
VIII. CÁC VẤN ĐỀ KHÁC
Cử tri tỉnh Quảng Ngãi: “Kiến nghị việc nộp học phí và các khoản đóng góp khác cho nhà trường của học sinh cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông cũng như các bậc học cao hơn đang là một khó khăn lớn làm cho đời sống đại đa số gia đình nông dân có con đi học càng khó khăn hơn. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ có chính sách ưu tiên nhiều hơn nữa để tạo điều kiện cho con em nông thôn được học hành”.
Trả lời:
Theo quy định của Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông phải đóng học phí. Mức thu học phí cụ thể do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định, phù hợp với điều kiện cụ thể và mức sống của nhân dân địa phương. Đối với những vùng khó khăn, vùng nông thôn, tuy học phí còn rất thấp nhưng cũng là khó khăn đối với nhiều gia đình. Để góp phần giảm bớt khó khăn cho học sinh học cấp trung học cơ sở, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với các bộ, ngành ban hành thông tư thông tư liên tịch 22/2005/TTLT-BLĐTB&XH-BTC-BGD&ĐT ngày 10/8/2005 về chính sách hỗ trợ thực hiện phổ cập trung học cơ sở cho các đối tượng gồm: học sinh là người tàn tật, mồ côi, là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, học sinh thuộc hộ nghèo theo quy định của nhà nước, không phân biệt đang học ở trường công lập hay ngoài công lập.
Cử tri các tỉnh Hải Dương, Thái Bình: “Đề nghị Nhà nước nên cho xây dựng các trường Đại học, Cao đẳng theo phân cụm các tỉnh, thành phố, không nên tập trung hết tại Hà Nội, nhằm tạo điều kiện cho học sinh có điều kiện học hơn và tránh tình trạng quá tải ở Hà Nội”.
Trả lời:
Việc thành lập các trường đại học, cao đẳng ở các tỉnh nhằm giảm tải cho thành phố lớn như Hà Nội, và thành phố Hồ Chí Minh và tạo điều kiện học tập thuận lợi hơn cho học sinh các tỉnh là chủ trương của Chính phủ và trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã, đang thực hiện.
Trong 2 năm gần đây, Chính phủ không thành lập mới trường ĐH, CĐ ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh; đồng thời đã thành lập nhiều trường đại học và cao đẳng ở các tỉnh, thành phố khác theo quy hoạch.
Cụ thể từ năm 2003 đến nay đã thành lập được các trường đại học sau:
- Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Thái Nguyên;
- Trường Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Huế;
- Trường Đại học Tiền Giang;
- Trường Đại học dân lập Yersin Đà Lạt;
- Trường Đại học Điều dưỡng
- Trường Đại học dân lập Lương Thế Vinh (
- Học Viện Y – Dược Học Cổ truyền Việt
Riêng cao đẳng từ 2004 đến nay đã thành lập các trường sau:
- Trường Cao đẳng Văn hoá- Nghệ thuật Nghệ An;
- Trường Cao đẳng Văn hoá- Nghệ thuật và Du lịch Nha Trang (Khánh Hoà);
- Trường Cao đẳng Văn hoá- Nghệ thuật Thanh Hoá;
- Trường Cao đẳng Văn hoá- Nghệ thuật và Du lịch Hạ Long (Quảng Ninh);
- Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ;
- Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Long;
- Trường Cao đẳng Bến Tre;
- Trường Cao đẳng Thống Kê (Tổng cục Thống kê);
- Trường Cao đẳng Y-Dược Thanh Hoá (tách khoa Y của Trường ĐH Hồng Đức);
- Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao đỏ (Bộ Công nghiệp);
- Trường Cao đẳng tư thục Thành Đô (Hà Tây)
- Trường Cao đẳng Truyền hình (Đài Truyền hình Việt
- Trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật Nghệ An;
- Trường Cao đẳng y tế Quảng Ninh;
- Trường Cao đẳng Công nghiệp
- Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường;
- Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Đắc Lắc;
- Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Tây Bắc;
- Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Việt Bắc;
- Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang;
- Trường Cao đẳng Công nghệ và Quản trị Sonadezi (Đồng Nai)
- Trường Cao đẳng tư thục Đức Trí (Đà Nẵng) đã thẩm định.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã có quyết định đồng ý về nguyên tắc cho phép thành lập một số trường đại học, cao đẳng ở các tỉnh, thành phố khác.
Cử tri tỉnh Hà Tĩnh: “Đề nghị bổ sung trường Đại học Hà Tĩnh và quy hoạch hệ thống các trường đại học trên toàn quốc.
Trả lời:
Bộ Giáo dục và Đào tạo nhất trí với ý kiến của cử tri về việc bổ sung Đề án thành lập trường Đại học Hà Tĩnh vào quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc.
Để xúc tiến việc thành lập trường Đại học tại Hà Tĩnh, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, ngày17/5/2005 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký quyết định thành lập Phân hiệu Trường Đại học Vinh tại Hà Tĩnh và một trong những nhiệm vụ của phân hiệu này là chuẩn bị các điều kiện để tiến tới thành lập trường Đại học tại Hà Tĩnh.
Cử tri tỉnh Ninh Thuận: “Đề đạt nguyện vọng được Nhà nước xem xét đưa thêm chương trình dạy chữ Ra-grai vào bậc tiểu học đối với các trường có đông học sinh là dân tộc Ra-grai.
Trả lời:
Việc đưa nội dung dạy học một tiếng dân tộc vào trong nhà trường cần có những yêu cầu về điều kiện cụ thể như: có bộ chữ viết được Nhà nước công nhận, có chương trình và sách giáo khoa được Hội đồng quốc gia thẩm định đánh giá tốt, có đội ngũ giáo viên được đào tạo để giảng dạy, đồng bào dân tộc có nhu cầu, nguyện vọng học tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình.
Nguyện vọng học tiếng và chữ Ra-grai của đồng bào dân tộc Ra-grai là hoàn toàn phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, để có thể đưa tiếng Ra-grai vào chương trình học cần có thời gian để cộng đồng và các ngành các cấp nỗ lực chuẩn bị để tiếng Ra-grai dần hội đủ các điều kiện để trở thành môn học trong nhà trường tiểu học vùng đồng bào dân tộc Ra-grai.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ nghiên cứu đề nghị của cử tri Ninh Thuận để chuẩn bị các điều kiện cần thiết, đưa tiếng Ra-grai vào dạy khi đáp ứng các yêu cầu quy định.
Cử tri tỉnh Cà Mau: “Ngành giáo dục nên nghiên cứu thực hiện việc xét tuyển vào một số trường đại học, không nhất thiết phải thi tuyển, chỉ căn cứ vào kết quả học phổ thông và thi tốt nghiệp trung học phổ thông (Tú tài)”.
Trả lời:
Từ năm 2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án đổi mới công tác tuyển sinh vào các trường ĐH, CĐ, trong đó có định hướng nghiên cứu để cải tiến công tác thi cử theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, thiết thực. Ngày 04/4/2005, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số 11/2005/CT-BGD&ĐT về việc tăng cường chỉ đạo thi và tuyển sinh, trong đó yêu cầu chuẩn bị mọi mặt và có kế hoạch cụ thể để từ năm 2006 triển khai thi theo phương pháp trắc nghiệm kết hợp với tự luận, tiến tới tổ chức một kì thi để xét tốt nghiệp trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang nghiên cứu kỹ lưỡng để xây dựng lộ trình thực hiện kế hoạch nói trên, theo đó, dự kiến từ năm 2009 sẽ kết hợp kỳ thi tốt nghiệp THPT với kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ thành một kỳ thi quốc gia để vừa công nhận tốt nghiệp THPT, vừa xét tuyển vào ĐH, CĐ.
Cử tri tỉnh An Giang: “giáo dục phân ban nhiều lần điều chỉnh phân rồi xoá, hiện tại phân ban thí điểm. Giáo viên phải gồng gánh chỉ tiêu tốt nghiệp, làm nảy sinh bệnh thành tích, chất lượng dạy và học kém”.
Trả lời:
a) Việc thực hiện phân ban ở trường Trung học phổ thông (THPT) đã qua các lần điều chỉnh sau:
- Năm 1989 thực nghiệm thí điểm mô hình trường Trung học chuyên ban tại 2 trường Hoàn Kiếm (Hà Nội) và Lê Hồng Phong (Nam Hà trước đây) và sau đó thực nghiệm thêm một số trường ở các tỉnh phía nam (Thực hiện Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về Cải cách giáo dục).
- Từ năm học 1993-1994 đến hết năm học 1999-2000 thực hiện đề án mở rộng thí điểm "Phân ban trong trường THPT" với 3 ban là Ban Khoa học tự nhiên, ban Khoa học tự nhiên - Kĩ thuật và ban Khoa học xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, quá trình thực hiện đề án cho thấy mô hình Trung học phân ban nêu trên có những nhược điểm sau:
+ Nội dung dạy học còn nặng, thiên về lí thuyết, nhẹ về thực hành.
+ Chương trình chưa thể hiện rõ tính hướng nghiệp, ít có tác dụng chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng tham gia vào lao động sản xuất cũng như theo học các trường chuyên nghiệp.
+ Tính khả thi của phương án thí điểm chưa được đảm bảo đối với ban Khoa học tự nhiên - Kĩ thuật.
- Để khắc phục những nhược điểm này, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 30/1998/CT-TTg ngày 1/9/1998 “Về điều chỉnh chủ trương phân ban ở phổ thông trung học và đào tạo hai giai đoạn ở đại học”.
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội và Chỉ thị 14/2001/TTg của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thí điểm chương trình giáo dục THPT phân ban mới:
- Năm học 2003-2004 thí điểm lớp 10 tại 48 trường THPT thuộc 11 tỉnh, thành phố.
- Năm học 2004-2005 thí điểm lớp 10 và lớp 11 tại 48 trường THPT thuộc 11 tỉnh, thành phố nói trên. Đồng thời việc thí điểm này cũng được mở rộng cho những học sinh lớp 10 của các tỉnh, huyện vừa tốt nghiệp lớp 9 thực hiện chương trình THCS thí điểm.
- Năm học 2005-2006 thí điểm lớp 10, 11 và 12 tại các trường THPT như năm học 2004-2005.
b) Việc điều chỉnh phân ban:
Trong quá trình thực hiện thí điểm đã xuất hiện những ý kiến khác nhau về phương án phân ban. Tại kì họp thứ 6, Quỗc hội khoá XI đã thông qua Nghị quyết về giáo dục số 37/2004/QH11 ngày 3/12/2004, trong đó nêu rõ: “...Nghiên cứu điều chỉnh phương án phân ban THPT góp phần tích cực hướng nghiệp cho học sinh và phù hợp với thực tiễn Việt
Cử tri tỉnh Cao Bằng: “Đề nghị quan tâm hơn đến công tác xoá mù chữ cho những phụ nữ đã quá tuổi (trên 25 tuổi), vì những đối tượng này ở tỉnh miền núi vẫn còn khá nhiều”.
Trả lời:
Năm 2000 nước ta được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ (XMC) – phổ cập giáo dục tiểu học (PCGDTH). Từ năm 2001 đến nay để củng cố, phát huy kết quả XMC – PCGDTH tiến tới PCGDTH đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở, Bộ GD&ĐT chỉ đạo: thường xuyên và tiếp tục mở các lớp XMC để nâng cao tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi, thu hẹp số người mù chữ ở các độ tuổi khác; XMC triệt để cho những người mù chữ trong độ tuổi; xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) ở xã, phường, thị trấn, tạo nhiều cơ hội cho người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em gái ở các tỉnh miền núi được đi học các lớp XMC và các chuyên đề giáo dục sau khi biết chữ, chống tái mù chữ. Bộ GD&ĐT chú trọng chỉ đạo việc xây dựng và phát triển TTHTCĐ trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc như khu vực miền núi phía Bắc, khu vực Tây Nguyên như đã triển khai Dự án “phát triển TTHTCĐ cho 8 tỉnh miền núi phía Bắc”, Dự án “TTHTCĐ- GDKCQ để giảm nghèo và phát triển TTHTCĐ tại khu vực Tây Nguyên“. Việc phát triển các TTHTCĐ ở những vùng này đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhiều đối tượng trong đó có chị em phụ nữ trên 25 tuổi tham gia học các lớp XMC và sau XMC.
Ngày 18/5/2005 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 112/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010”, mục tiêu về XMC là : “ Nâng cao kết quả XMC, phấn đấu tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15 trở lên tăng từ 94% (vào năm 2000) lên trên 98%, trong đó đối với số người có độ tuổi từ 15 đến 35 đạt trên 99%; đặc biệt tăng nhanh tỷ lệ XMC cho cho các dân tộc ít người”. Hiện nay Bộ GD&&ĐT đã có kế hoạch triển khai đề án này.
Riêng công tác XMC cho những phụ nữ từ 15 tuổi trở lên, ngày 15/7/2005 Bộ GD&ĐT đã ký với Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Chương trình phối hợp hoạt động “Xoá mù chữ - Phổ cập giáo dục tiểu học cho cán bộ Hội phụ nữ cơ sở, góp phần xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010”.
Cử tri tỉnh Sơn La: “Cần đổi mới cơ bản chế độ học phí, đảm bảo để học phí cùng với phần kinh phí hỗ trợ của Nhà nước đủ trang trải các chi phí cho giảng dạy, học tập, tích luỹ để đầu tư, phát triển nhà trường. Đề nghị Nhà nước có chính sách trợ cấp học phí, hoặc học bổng cho học sinh giáo dục phổ cập, cho người học là đối tượng chính sách, những người ở vùng khó khăn, những người nghèo và những người học xuất sắc, không phân biệt học ở trường công lập hoặc ngoài công lập.
Trả lời:
Thực hiện Luật Giáo dục 2005 và Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao, Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính đang xây dựng Đề án học phí trình Thủ tướng Chính phủ. Nội dung dự thảo Đề án học phí đã chú trọng đề cập và nhằm xử lý giải quyết những vấn đề kiến nghị của cử tri nêu ra, như:
- Thống nhất quy định chỉ có 1 khoản thu trong nhà trường là học phí.
- Điều chỉnh khung học phí để tạo điều kiện bảo đảm nguồn kinh phí hoạt động cho các trường.
- Trợ cấp trực tiếp cho người học thuộc diện chính sách để đóng học phí.
Đồng thời, Bộ GD&ĐT cũng đang chủ trì soạn thảo Đề án sửa đổi chính sách học bổng và trợ cấp xã hội để có thể hỗ trợ, tạo điều kiện học tập tốt hơn cho học sinh, sinh viên là con em gia đình chính sách, gia đình nghèo, ở các vùng khó khăn.
Cử tri tỉnh Bạc Liêu: “Cử tri là đồng bào dân tộc Khơ me tỉnh Bạc Liêu kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo kịp thời có chính sách đào tạo giáo viên dạy tiếng Khơ me. Vì hiện nay, chủ trường dạy song ngữ cho học sinh là con em người dân tộc Khơ me đã có, nhưng việc tổ chức dạy chưa tốt, nguyên nhân chính là do thiếu giáo viên dạy tiếng dân tộc Khơ me”.
Trả lời:
Thực hiện Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg ngày 9/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai các nội dung:
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số.
- Xây dựng chương trình khung đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc.
- Thẩm định chương trình, sách giáo khoa, tài liệu của một số tiếng dân tộc.
Chương trình, tài liệu của một số tiếng dân tộc đang được thẩm định nhằm sớm phục vụ cho yêu cầu dạy học tiếng dân tộc. Riêng đối với tiếng Khơ me, Bộ GD&ĐT đang xúc tiến việc thẩm định Chương trình tiếng Khơ-me; tổ chức biên soạn và hoàn thiện sách dạy tiếng Khơ-me theo yêu cầu đổi mới; hướng dẫn thực hiện việc dạy tiếng Khơ-me theo quy định của Chính phủ.
Bộ GD&ĐT cũng đã giao nhiệm vụ cho một số trường sư phạm đào tạo GV tiểu học ở vùng có đông đồng bào Khơ me cần chú trọng đào tạo GV người dân tộc Khơ-me nhằm triển khai tốt chương trình, SGK mới ở các lớp tiểu học, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình và giáo trình đào tạo giáo viên dạy tiếng Khơ me. Các trường Cao đẳng sư phạm Trà Vinh, Sóc Trăng đã thực hiện việc đào tạo này trong mấy năm gần đây. Các địa phương có đồng bào Khơ me sinh sống mà chưa có khả năng đào tạo cần có kế hoạch gửi học sinh đi đào tạo giáo viên dạy tiếng và chữ tiếng Khơ me tại 2 trường nói trên.
Cử tri tỉnh Vĩnh Long: “Công văn số 2400/VP của Bộ Giáo dục và Đào tạo có trả lời là huy động thêm các nguồn kinh phí, nhưng địa phương không thể đáp ứng nổi do nguồn thu thì ít chi thì nhiều, sức dân cũng có hạn nên trong khi chờ phối hợp với Bộ Tài chính để tăng ngân sách trong năm tới thì đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo bổ sung phân bổ thêm đồ dùng dạy học cho các trường, hoặc tăng kinh phí đầu tư cho giáo viên làm đồ dùng dạy học”.
Trả lời:
Theo Luật Ngân sách, hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến phân bổ ngân sách cho toàn ngành giáo dục (các địa phương, các trường) gửi cho Bộ Tài Chính xem xét quyết định. Bộ Tài chính đã phân bổ nguồn NSNN phục vụ cho việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa trong đó có nhiệm vụ chi cho mua sắm trang thiết bị cho các địa phương với tỷ lệ hỗ trợ khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và nguồn thu của địa phương, trong đó có địa phương phải tự chi 100% ngân sách để mua sắm trang thiết bị dạy học (các thành phố lớn Hà Nội, TP HCM, Hải Phòng). Việc sử dụng ngân sách giáo dục tại địa phương do Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố quyết định. Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn các địa phương cần chủ động bố trí NSNN được cấp phục vụ cho việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, trong đó có nhiệm vụ chi cho mua sắm trang thiết bị. Ngoài ra, các địa phương cần huy động các nguồn vốn khác để bổ sung cho việc mua thiết bị dạy học, đồng thời khuyến khích giáo viên và học sinh tự làm thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo không được phép giữ lại kinh phí chi cho công việc này, do đó không có nguồn kinh phí để cấp bổ sung cho các địa phương như yêu cầu của cử tri tỉnh Vĩnh Long.
Cử tri tỉnh Vĩnh Long: “Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về quy cách và tăng cường đầu tư kinh phí đối với cấp tiểu học nhất là lớp một”.
Trả lời:
Giáo dục tiểu học là vấn đề được ngành giáo dục đặc biệt quan tâm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản để chuẩn hoá sự phát triển của giáo dục tiểu học như: Điều lệ trường tiểu học, Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia...Trong Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, Bộ GD&ĐT đã quy định về khuôn viên, sân chơi, bãi tập; phòng học; thư viện; phòng chức năng; phương tiện, thiết bị giáo dục...cho các trường tiểu học.
Trong những năm gần đây, theo định hướng của Đảng và Nhà nước đầu tư ngân sách cho giáo dục tiểu học, nhất là cho những vùng khó khăn ngày càng được tăng cường để xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày, trang bị phòng học và thiết bị văn phòng, xây dựng thư viện trường tiểu học, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên tiểu học v.v.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các tỉnh chủ động phân bổ ngân sách giáo dục phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và tình hình phát triển giáo dục của địa phương, nhưng phải ưu tiên cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đối với giáo dục tiểu học, cần tiếp tục đầu tư để duy trì, chống tái mù chữ, thực hiện phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và nâng cao chất lượng.
Để nâng cao chất lượng dạy và học ở bậc tiểu học, đặc biệt là khối lớp 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình 36 buổi cho các cháu 5 tuổi, nhằm chuẩn bị cho các cháu những kiến thức cơ bản trước khi vào học lớp một, đồng thời đã hướng dẫn các địa phương có biện pháp huy động tối đa các cháu 5 tuổi được đi học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo Nhà xuất bản Giáo dục in sách giáo khoa có chất lượng, đẹp cho giáo dục tiểu học, nhất là lớp một. Đối với vùng dân tộc, Bộ cũng đã chỉ đạo tăng cường dạy chữ dân tộc, qua đó để tiếp thu tốt hơn chương trình, sách giáo khoa. Hiện nay, Bộ cũng đang xây dựng qui định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số nhằm tăng cường khả năng tiếp thu kiến thức ở nhà trường, đặc biệt là khối tiểu học.
Để hỗ trợ các địa phương thực hiện các mục tiêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai hai dự án lớn đó là Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và Dự án phát triển giáo viên tiểu học.
Cử tri tỉnh Phú Thọ: “Đề nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét không nên quy định tiến tới bỏ kỳ thi đại học, vì quy định như vậy sẽ gây ra những tiêu cực khó điều chỉnh trong việc tuyển sinh”.
Trả lời:
Từ năm 2002, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án đổi mới công tác tuyển sinh vào các trường ĐH, CĐ, trong đó có định hướng nghiên cứu để cải tiến công tác thi cử theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, thiết thực. Ngày 04 tháng 4 năm 2005 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số 11/2005/CT-BGD&ĐT về việc tăng cường chỉ đạo thi và tuyển sinh, trong đó yêu cầu: "Chuẩn bị mọi mặt và có kế hoạch cụ thể để từ năm 2006 triển khai thi chung theo phương pháp trắc nghiệm kết hợp tự luận, tiến tới tổ chức một kì thi chung để xét tốt nghiệp trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp".
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang nghiên cứu kỹ lưỡng để xây dựng lộ trình thực hiện kế hoạch này, theo đó dự kiến từ năm 2009 sẽ kết hợp kỳ thi tốt nghiệp THPT với kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ thành một kỳ thi quốc gia để vừa công nhận tốt nghiệp THPT vừa xét tuyển vào ĐH, CĐ.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong Đề án đổi mới công tác tuyển sinh vào ĐH, CĐ, Bộ GD&ĐT không chủ trương bỏ kỳ thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng mà là tổ chức một kỳ thi chung để vừa xét tốt nghiệp trung học phổ thông vừa tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc: “Đề nghị nên quy định bỏ hệ B đối với trường công lập”.
Trả lời:
- Một số năm trước đây, khi bắt đầu thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đa dạng hoá các loại hình nhà trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép các địa phương mở những lớp bán công trong trường công (hệ B). Học sinh hệ này phải đóng học phí cao hơn học sinh công lập, mức học phí do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố qui định. Việc này một mặt đáp ứng nhu cầu của một bộ phận đáng kể học sinh không đủ điều kiện vào các trường công lập được tiếp tục học lên và tận dụng được cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên của trường. Nhờ cơ chế này, một số trường công lập có thêm nguồn kinh phí để nâng cao chất lượng đào tạo. Cho đến nay, các trường ngoài công lập phần lớn chỉ được thành lập ở những địa bàn trường công lập không đủ áp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, đồng thời phải là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội tương đối phát triển, nhân dân có khả năng đóng được học phí cao hơn học phí công lập.
- Tuy nhiên, việc mở lớp bán công trong trường công lập cũng có một số mặt hạn chế như: do tăng quy mô và tính phức tạp của quản lý hai loại đối tượng học sinh làm cho việc điều hành, chỉ đạo các hoạt động trong một số nhà trường trở nên phức tạp và đôi khi kém hiệu quả. Đối với các trường này, trong điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên chưa được cải thiện, khi có thêm những lớp bán công, đã làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, học tập. Việc này cũng tác động xấu đến việc tuyển sinh vào các trường ngoài công lập, làm chậm quá trình phát triển trường ngoài công lập theo chủ trương xã hội hoá giáo dục thể hiện trong Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.
- Xuất phát từ thực tế đó, và để thực hiện Luật Giáo dục (sửa đổi), Bộ GD&ĐT đã có công văn số 6744/ BGD&ĐT- GDTrH, ngày 4 tháng 8 năm 2005, Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2005-2006, trong đó yêu cầu: "Đối với những nơi chưa mở được trường ngoài công lập hoặc đã có trường ngoài công lập nhưng học sinh phải đi học quá xa, cho phép mở một số lớp bán công trong trường công lập nhưng không vượt quá 20% chỉ tiêu tuyển sinh công lập, từng bước giảm dần, tiến tới chấm dứt việc tuyển sinh bán công trong trường công lập".
Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chủ trương và xây dựng lộ trình bỏ những lớp bán công trong các trường công lập.
Cử tri các tỉnh Thái Nguyên, Hải Phòng: “Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Chính phủ có chương trình, mục tiêu và tiêu chí cho việc xây dựng trường chuẩn quốc gia các bậc học, ngành học và có cơ chế chính sách thực hiện”.
Trả lời:
Xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia là một chủ trương lớn của ngành giáo dục để xác định những điều kiện cần thiết và toàn diện đảm bảo chất lượng, hiệu quả giáo dục theo yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nhằm đưa giáo dục Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các tiêu chuẩn trường đạt chuẩn quốc gia là những điều kiện tối thiểu mà các trường học cần hướng tới và phấn đấu để đạt được. Tiêu chuẩn trường học đạt chuẩn quốc gia là căn cứ để Chính phủ, Bộ GD&ĐT và chính quyền địa phương các cấp xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển nhà trường ở các cấp, bậc học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các Quy chế công nhận trường Mầm non, Tiểu học, Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Đến nay, cả 4 cấp học đã có một số trường đạt chuẩn quốc gia. Thí dụ:
Đến hết năm học 2004-2005, trên toàn quốc đã có hơn 3200 trường tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia, chiếm khoảng 22 % tổng số trường tiểu học. Tất cả các tỉnh đều có trường tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Xây dựng trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia nằm trong chiến lược xây dựng mạng lưới trường học theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá của ngành giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tích cực chỉ đạo công tác này và trình Chính phủ có chính sách hợp lý, có kế hoạch phân bổ ngân sách để phối hợp với UBND các cấp có điều kiện thực hiện tốt nhất. Để xây dựng trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia rất cần sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp chính quyền cơ sở, đặc biệt trong việc giải quyết những khó khăn về đất đai, cơ sở vật chất nhà trường. Chỉ riêng sự cố gắng của ngành giáo dục là chưa đủ mà cần phải có sự đồng tâm và nỗ lực của toàn xã hội.
Về việc xây dựng các trường đại học, cao đẳng đạt chuẩn quốc gia: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có các văn bản trình và được Thủ tướng Chính phủ quyết định (số 47/2001/QĐ-TTg ngày 04/04/2001) phê duyệt "Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001 - 2010". Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ đã quy định các tiêu chí về đội ngũ giảng viên, về cơ sở vật chất - kỹ thuật tối thiểu cho các trường đại học, cao đẳng.
Ngày 06/9/2004, tại công văn số 1269/CP-KG về việc tiếp tục hoàn thiện mạng lưới trường đại học, cao đẳng, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 14 cơ sở đại học trọng điểm trong toàn quốc. Đây là cơ sở quan trọng để các bộ, ngành đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực cho các trường đại học trọng điểm nhằm đào tạo nguồn nhân lực ở các trình độ đại học, sau đại học có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020.
Cử tri tỉnh Thái Nguyên: “Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có một chương trình tổng thể thực hiện Chỉ thị 61 của Bộ Chính trị về việc đưa công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà trường có hiệu quả hơn”.
Trả lời:
Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai việc nghiên cứu quán triệt và tìm các biện pháp để thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ của ngành đã được nêu trong Chỉ thị 58.
Ngày 30/7/2001 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giai đoạn 2001-2005. Chỉ thị số 29/2001/ CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng đã nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ và trách nhiệm của các đơn vị trong ngành giáo dục, từ các đơn vị của cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các sở giáo dục và đào tạo đến các trường đại học, cao đẳng, THCN và các trường phổ thông. Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, đưa tin học vào nhà trường, Chỉ thị 29 của Bộ cũng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng mạng nội bộ tại các cơ sở giáo dục và đào tạo, tại các cơ quan quản lý giáo dục, kết nối Internet, xây dựng mạng giáo dục, triển khai ứng dụng vào quản lý giáo dục, vào đào tạo từ xa. Sự xác định rõ vai trò quan trọng của CNTT trong giáo dục và đào tạo như vậy tất yếu sẽ lập ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục trong nhà trường.
Hiện tại Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiến hành tổng kết các mặt công tác 5 năm (2001-2005) thực hiện Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT và thấy rằng có nhiều kết quả đã đạt được, đặc biệt là các kết quả đạt được trong việc đưa công nghệ thông tin vào công tác quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước đúng theo yêu cầu của cải cách hành chính.
Sau đây xin được báo cáo một vài kết quả đã đạt được:
a) Kết nối Internet, phát triển mạng và các dịch vụ GD&ĐT trên mạng
- Đến nay, 100% các trường đại học, cao đẳng đã nối mạng Internet bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhiều trường đại học có mạng nội bộ, có đường thuê riêng, có phòng truy nhập Internet cho sinh viên và giáo viên, có trang thông tin điện tử; 14 trường đại học đã xây dựng thư viện điện tử và trung tâm thông tin.
- Thực hiện Bản ghi nhớ về hợp tác triển khai mạng giáo dục (EduNet) ngày 4/4/2003 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Bưu chính Viễn thông, đến cuối năm 2003 đã có hơn 2000 trường THPT (đạt tỷ lệ 96%) đã được nối mạng Internet, trang bị cho mỗi trường THPT 2 bộ máy tính với cấu hình mạnh và modem phục vụ kết nối Internet, lắp đặt miễn phí đường điện thoại tới các trường THPT.
- Nhiều Sở GD&ĐT như Hà Nội, Hoà Bình, TP. HCM, Đà Nẵng, Huế, Hải phòng, Bắc Ninh, Hoà Bình ... đã xây dựng mạng nội bộ, kết nối tới các trường phổ thông, xây dựng trang thông tin điện tử của Sở. Tuy vậy, việc khai thác và sử dụng Internet còn hạn chế do cước phí truy nhập còn cao và nội dung thông tin cho giáo dục chưa nhiều.
b) Tình hình triển khai Đề án tin học hoá quản lý
- Đã nâng cấp mạng nội bộ cơ quan Bộ, lắp đặt đường truyền riêng, triển khai hệ thống thư điện tử truy nhập nội bộ và truy nhập từ xa cho cán bộ công chức cơ quan Bộ, đã xây dựng trang thông tin điều hành tác nghiệp, triển khai một số ứng dụng trên mạng nội bộ.
- Đã triển khai Hệ thống chương trình quản lý cán bộ, công chức ngành giáo dục (RMIS) đến tất cả các trường đại học, cao đẳng và các sở giáo dục và đào tạo, tạo ra được một cơ sở dữ liệu với gần một triệu cán bộ, công chức ngành giáo dục và đào tạo, phục vụ nhu cầu quản lý, tra cứu của các nhà trường, của các cấp quản lý giáo dục. Các thông tin về cán bộ được thu thập qua mạng.
- Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã triển khai thí điểm Hệ thống thông tin quản lý giáo dục (EMIS) tại 19 tỉnh. Hệ thống được thiết kế theo quan điểm phân cấp quản lý một cách triệt để, đáp ứng nhu cầu quản lý của từng nhà trường, của từng cấp quản lý từ phòng đến sở và bộ về bậc học phổ thông.
- Việc ứng dụng CNTT vào quản lý đào tạo, tuyển sinh, thư viện, kế toán tài chính, nhân sự đã được triển khai nhiều năm nay ở các trường.
- Bắt dầu từ năm 2002, trong công tác tuyển sinh đại học và cao đẳng, CNTT đã được ứng dụng vào mã hoá bảo mật đề thi, công khai hoá đề thi và đáp án trên mạng sau từng đợt thi, kết quả thi và điểm chuẩn được đưa lên mạng, tổng hợp kết quả trúng tuyển ở từng trường và ở cấp Bộ.
- Năm 2005, đã ứng dụng họp qua mạng để tổ chức Hội nghị tuyển sinh đại học và cao đẳng với 4 đầu cầu là Hà Nội, Huế, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Đã tổ chức hội nghị tư vấn tuyển sinh qua mạng.
c) Hoạt động NCKH, NCTK, phát triển và cung cấp dịch vụ CNTT
Hàng năm các trường đại học đã triển khai hơn 30 để tài nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, trong đổi mới phương pháp giảng dạy bằng kinh phí từ ngân sách sự nghiệp KHCN. Những kết quả nghiên cứu này còn ở mức độ thăm dò và được ứng dụng ở phạm vi hẹp trong từng trường. Hiện tại, các cơ sở GD&ĐT chủ yếu khai thác và sử dụng dịch vụ CNTT của các doanh nghiệp viễn thông.
Với những kết quả đạt được như trên có thể khẳng định việc đưa công nghệ thông tin vào công tác quản lý giáo dục đã tạo ra một bước chuyển biến cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Theo lộ trình trong năm 2005 và các năm tiếp theo Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Bưu chính, Viễn thông, các doanh nghiệp trong và ngoài nước xây dựng nội dung thông tin trên Internet, các học liệu điện tử phục vụ công tác giảng dạy, quản lý của ngành, các thư viện điện tử và triển khai công tác chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo triển khai kết nối Internet cho 50% số trường THCS .
Cử tri tỉnh Thái Nguyên: “Chính phủ đã quy định, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản hướng dẫn về việc: cấp tỉnh có ít nhất 01 trường Đại học cộng đồng, 01 Trung tâm GDTX, 01 trường dạy nghề; cấp huyện có ít nhất: 01 trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, 01 trung tâm GDTX, 01 trường dạy nghề; cấp xã có ít nhất 01 trung tâm học tập cộng đồng. Để thực hiện chương trình mục tiêu trên, đề nghị Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - TB- XH cần có chương trình Quốc gia về xây dựng hệ thống trường và các loại hình trung tâm cho các địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi”.
Trả lời:
Những kiến nghị mà cử tri đề nghị đang được Chính phủ giao cho các Bộ, ngành có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu, còn hiện tại chưa có văn bản nào hoặc chương trình quốc gia nào của Chính phủ quy định như vậy. Hiện nay ở Việt
Theo phân cấp hiện nay thì các TTGDTX, trường dạy nghề, trung tâm giáo dục hướng nghiệp dạy nghề và trung tâm học tập cộng đồng các cấp tỉnh, huyện, xã được thành lập theo nhu cầu của các địa phương và do chính quyền địa phương quyết định theo quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục của địa phương.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiến hành tổng kết chiến lược phát triển giáo dục đào tạo giai đoạn 2001-2005, đề xuất với Chính phủ về nội dung, nhiệm vụ của chương trình mục tiêu quốc gia ngành giáo dục và đào tạo thực hiện trong giai đoạn 2006-2010. Bộ Giáo dục và Đào tạo xin tiếp thu những kiến nghị của cử tri để nghiên cứu hướng dẫn xây dựng hệ thống mạng lưới giáo dục của các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006-2010.
Cử tri tỉnh An Giang và TP Đà Nẵng: “Việc giao chỉ tiêu học sinh đến lớp, lên lớp, tốt nghiệp: làm phát sinh tư tưởng chạy theo thành tích, nhưng chất lượng ngày càng xuống cấp, cụ thể là tỷ lệ tốt nghiệp dù lên lớp đạt cao nhưng điểm thi vào đại học tỷ lệ bài có điểm cao rất thấp. Việc giao chỉ tiêu lên lớp đạt 100% và chống lưu ban, bỏ học trong trường học là một trong các chỉ tiêu thi đua tạo một áp lực lớn cho giáo viên trong việc giảng dạy và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng học kém”.
Trả lời:
Từng năm học, các trường học đều xây dựng kế hoạch giáo dục và các chỉ tiêu cụ thể nhằm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ giáo dục toàn diện theo mục tiêu đề ra. Chống bỏ học, lưu ban là một yêu cầu cần phải làm trong các nhà trường nhằm đảm bảo sự công bằng và quyền được giáo dục của học sinh nhất là với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, những học sinh có hạn chế về năng lực học tập; đồng thời cũng là biện pháp bảm đảm chất lượng giáo dục. Để thực hiện nhiệm vụ này, từng trường học, từng giáo viên đề ra những biện pháp cụ thể để thực hiện. Thi tốt nghiệp chỉ là một trong những hình thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh chủ yếu về các môn văn hoá, không phản ánh đầy đủ chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ thông và do thi tốt nghiệp có những điểm khác cơ bản với kỳ thi tuyển sinh nên không thể lấy kết quả của hai kỳ thi để đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông.
Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo không căn cứ vào tỷ lệ tốt nghiệp, tỷ lệ lên lớp hằng năm để đánh giá chất lượng giáo dục của các địa phương và cũng không coi đây là tiêu chí đánh giá thi đua. Tuy nhiên, hiện còn có một số địa phương, trường học chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề này, còn có biểu hiện của bệnh thành tích như cử tri đã phản ánh. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và sẽ có những chỉ đạo, uốn nắn kịp thời để từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ bệnh thành tích trong các cơ sở và cơ quan quản lý giáo dục.
Cử tri TP. Hồ Chí Minh: “Đề nghị cần cải cách hệ thống giảng dạy tiếng Anh phổ thông, đại học và chuyên ngành cho CNTT”.
Trả lời:
Hiện nay tiếng Anh đang được dạy và học ở nước ta với tư cách là một môn học trong nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân chứ không phải là một hệ thống giảng dạy riêng biệt, vì vậy không nên đặt vấn đề “Cải cách hệ thống giảng dạy tiếng Anh phổ thông, đại học và chuyên ngành cho CNTT”.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đẩy mạnh việc dạy học ngoại ngữ trong hệ thông giáo dục quốc dân. Theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng “Đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam” trong đó có đề cập tới việc đổi mới việc dạy học ngoại ngữ nói chung và dạy học tiếng Anh nói riêng.
Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xin ý kiến góp ý của các bộ, ngành có liên quan về nội dung của Đề án để hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ vào tháng 10 năm 2005.
Các đề xuất về đổi mới cách dạy và học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng, trong đề án là:
Việc dạy và học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng được thiết kế theo một bảng trình độ năng lực ngoại ngữ thống nhất đảm bảo tính liên thông giữa các cấp học, được thiết kế cụ thể cả nội dung và kiểm tra đánh giá các năng lực nghe, nói, đọc, và viết theo 6 bậc. Các cấp học dự kiến sẽ tiến hành dạy và học ngoại ngữ như sau:
- Đối với cấp học phổ thông sẽ thực hiện chương trình ngoại ngữ 10 năm bắt đầu từ lớp 3 đến lớp 12. Tốt nghiệp tiểu học đạt bậc 1, trung học cơ sở đạt bậc 2 và trung học phổ thông đạt bậc 3 với tổng số tiết học dự kiến 1.050 tiết.
- Đối với cao đẳng và đại học không chuyên ngoại ngữ: các trường đại học, cao đẳng không chuyên phải dạy theo các chương trình khác nhau để phù hợp với trình độ ngoại ngữ của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông (do được học các chương trình 3 và 7 năm trước đây và 10 năm hiện nay về ngoại ngữ khác nhau). Sinh viết tốt nghiệp cao đẳng và đại học không chuyên phải đạt năng lực ngoại ngữ ở bậc 4.
- Đối với các trường đại học và cao đẳng chuyên ngữ cũng phải dạy theo nhiều chương trình khác nhau nhằm đáp ứng thực tế đầu vào rất khác nhau hiện nay ở phổ thông TH. Sinh viên tốt nghiệp CĐ chuyên ngữ phải đạt ở bậc 4 - 5. Sinh viên tốt nghiệp ĐH chuyên ngữ phải đạt ở bậc 5.
- Các giải pháp:
+ Hoàn thiện chương trình và sách giáo khoa (ở phổ thông), giáo trình (ở đại học). ở phổ thông, Bộ GD&ĐT đã có chương trình thay sách giáo khoa tiếng Anh mới và năm học 2005 - 2006 bắt đầu xây dựng chương trình ngoại ngữ 10 năm, bắt đầu dạy từ lớp 3 của bậc tiểu học đến hết lớp 12. Đối với giáo dục đại học, Bộ đã ban hành chương trình khung ngành tiếng Anh trình độ đại học.
+ Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên có chất lượng cao, đủ về số lượng. Bộ GD&ĐT đã đề nghị Chính phủ thành lập thêm các trường ĐH ngoại ngữ ở các khu vực: Huế, Đà Nẵng, cho phép các trường ĐH, CĐ có đủ điều kiện mở ngành đào tạo tiếng Anh, cử cán bộ đi đào tạo trong nước và tu nghiệp ở nước ngoài...
+ Xây dựng các nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá phù hợp.
+ Tăng cường trang bị cơ sở vật chất thiết bị cho việc dạy và học ngoại ngữ.
+ Tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế.
+ Có chính sách ưu tiên tuyển chọn công chức, đề bạt cán bộ khi có trình độ ngoại ngữ giỏi.
Cử tri tỉnh An Giang: “Sự chênh lệch dạy và học:giữa thành thị với nông thôn, vùng sâu, vùng xa… còn khoảng cách quá xa. Trình độ giáo viên không đạt chuẩn, chắp vá là nguyên nhân sâu xa học sinh có trình độ không đạt yêu cầu. Nên cải cách sàng lọc đưa ra khỏi ngành đối với giáo viên không đủ khả năng, không đủ chuẩn để giảng dạy. Bổ sung giáo viên giỏi cho vùng sâu, vùng xa, hải đảo… kèm theo các chính sách rõ ràng về đời sống, trách nhiệm của giáo viên. Nên khắc phục tốt tình trạng “chạy”về dạy ở thành thị”.
Trả lời:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng tình với nhận xét cử tri về việc có sự chênh lệch về chất lượng dạy và học giữa các vùng thành thị với nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việc này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về chất lượng đội ngũ giáo viên. Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều giải pháp nhằm từng bước giảm tỷ lệ giáo viên không đạt chuẩn trình độ đào tạo, đặc biệt đối với vùng núi, vùng sâu, vùng xa, cụ thể là: đối với giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo nhưng có đủ sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn và còn trong độ tuổi đào tạo thì bố trí cho đi đào tạo tiếp để đạt trình độ chuẩn. Đối với những giáo viên không đủ sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực chuyên môn yếu, quá độ tuổi đào tạo thì xem xét giải quyết chế độ theo Nghị quyết 09/2003/NQ-CP ngày 28/7/2003 về sửa đổi bổ sung Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.
Để triển khai thực hiện Chỉ thị 40 của Ban Bí thư, các địa phương đã và đang tiến hành điều tra, khảo sát, rà soát để sắp xếp lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục và đang triển khai thực hiện các công việc sau:
- Xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý đội ngũ giáo viên. Rà soát lại hệ thống tiêu chuẩn chức danh hiện có của các ngạch giáo viên và đã xây dựng để Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 61/2005/QĐ-BNV ngày 15/6/2005 bổ sung ngạch giáo viên phổ thông, mầm non, tiến hành xây dựng chuẩn giáo viên phù hợp với yêu cầu của phát triển. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý nhân sự và các quy định về công tác thanh tra, thanh tra chuyên môn, xây dựng và ban hành quy chế đánh giá giáo viên, tuyển dụng giáo viên.
- Xây dựng hoàn thiện chế độ chính sách đối với giáo viên, tiếp tục đề nghị sử dụng 5% quỹ biên chế để giáo viên thay nhau đi bồi dưỡng nâng cao trình độ. Trên cơ sở phân công, phân cấp hợp lý giữa các ngành, các cấp, các cơ quan quản lý giáo viên, giao thẩm quyền chủ động và trách nhiệm cho các cơ quan quản lý giáo dục và nhà trường trong việc sử dụng, tuyển dụng và đãi ngộ giáo viên để khuyến khích giáo viên giỏi, sàng lọc giáo viên yếu kém.
- Xây dựng và ban hành các chính sách thu hút giáo viên đến công tác tại vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, sửa đổi Nghị định số 35/2001/NĐ-CP ngày 9/7/2001 của Chính phủ về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và một số chính sách trợ cấp cho giáo viên vùng khó cả về vật chất và tinh thần, dần khắc phục tình trạng “chạy” về dạy ở thành thị.
Cử tri tỉnh Nam Định: “Đề nghị Chính phủ quan tâm tạo điều kiện cho nâng cấp trường Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật Nam Định và trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định lên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật và trường Đại học Sư phạm”.
Trả lời:
Việc thành lập trường đại học, cao đẳng tại một địa phương được xem xét phù hợp với quy hoạch mạng lưới chung và căn cứ vào nhu cầu thực tế, các điều kiện bảo đảm chất lượng, cơ cấu ngành nghề, phân bố trường theo vùng, miền. Tại
Cử tri tỉnh Hưng Yên: “Để giảm chi phí cho các phụ huynh học sinh, giảm mật độ người ở các thành phố mỗi khi mùa thi đại học và cao đẳng, đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định thi tuyển sinh vào đại học và cao đẳng thí sinh ở tỉnh nào thì tổ chức thi tại tỉnh đó (hoặc theo khu vực)”.
Trả lời:
Việc tổ chức thi tuyển sinh vào ĐH, CĐ tại các tỉnh đã được tiến hành, nhưng qua thực tế cho thấy, với số lượng thí sinh dự thi tuyển sinh ĐH, CĐ hàng năm xấp xỉ 1 triệu người, điều kiện kinh phí hạn hẹp, việc bảo đảm các điều kiện tổ chức thi và kỷ luật thi tại các địa phương rất khó khăn, vì vậy phải tổ chức cho thí sinh thi tại các trường ĐH, tập trung ở một số địa phương.
Từ năm 2002, thực hiện Đề án cải tiến tuyển sinh theo giải pháp 3 chung được Thủ tướng Chính phủ cho phép, ngoài các trung tâm lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Tp.HCM…Bộ GD&ĐT đã tổ chức 3 cụm thi ở Tp.Vinh, Quy Nhơn và Cần Thơ để thí sinh ở các thành phố này và các địa phương lân cận không phải về Hà Nội và Tp.HCM dự thi, tránh được sự ùn tắc giao thông ở các thành phố lớn, thí sinh đỡ phải đi lại, giảm bớt tốn kém cho thí sinh và gia đình.
Cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: “Kiến nghị cần kiểm điểm làm rõ trách nhiệm những người liên quan đến trường hợp học sinh lớp 5 chưa biết chữ và đề nghị bỏ điểm ưu tiên cho người dân tộc, con em các đối tượng chính sách vì điều đó cũng làm giảm chất lượng giáo dục (thi không đạt vẫn cho lên lớp, sẽ không đảm bảo chất lượng đối với các lớp tiếp theo)”.
Trả lời:
a) Về giáo dục tiểu học:
- Sau khi Đài truyền hình Việt Nam phát sóng phóng sự dự thi Học ngược của Đài phát thanh và truyền hình Đồng Tháp ngày 13/1/2005, Bộ GD&ĐT đã làm việc với UBND tỉnh, Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và yêu cầu Sở GD&ĐT:
+ Chỉ đạo cho các trường tiểu học tiến hành đánh giá chất lượng học sinh để xác định số học sinh yếu; có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng ngay để số học sinh này theo kịp trình độ của lớp và hoàn thành có chất lượng bài kiểm tra cuối năm; phân công giáo viên có trách nhiệm và tay nghề cao phụ trách các lớp có học sinh yếu để đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường.
+ Sở, Phòng GD&ĐT nghiêm túc rút kinh nghiệm và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh và chất lượng giảng dạy của giáo viên, không để tình trạng học sinh lên lớp không đảm bảo chất lượng; chỉ đạo có kết quả công tác bồi dưỡng, phụ đạo học sinh học yếu ở các lớp.
Theo chỉ đạo của Sở GD&ĐT Đồng Tháp, Phòng GD&ĐT Thị xã Cao Lãnh đã thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục các trường tiểu học kể từ học kì II năm học 2004-2005. Sở, Phòng GD&ĐT đã chỉ đạo Ban giám hiệu trường tiểu học Mỹ Trà 2 áp dụng các biện pháp: kết hợp gia đình, nhà trường và Hội cha mẹ học sinh cùng giáo viên chăm sóc, động viên, giúp đỡ học sinh; tăng cường kiểm tra để có những biện pháp chỉ đạo phù hợp, kịp thời.
Sở GD&ĐT Đồng Tháp sẽ tiếp tục chỉ đạo các Phòng GD&ĐT, các trường tiểu học thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Bộ để dần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh tiểu học trong các năm học tới.
b) Về điểm ưu tiên cho người dân tộc, con em các đối tượng chính sách:
- Đối với giáo dục phổ thông:
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo có chế độ ưu tiên, cộng thêm điểm khuyến khích cho học sinh dân tộc thiểu số và học sinh diện chính sách trong thi tốt nghiệp THCS và THPT. Tuỳ theo đối tượng mà có chính sách ưu tiên xét tốt nghiệp THCS và THPT; cộng thêm điểm khuyến khích trong tuyển sinh vào THCS và THPT cho học sinh là: con liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, con anh hùng lực lượng vũ trang, con anh hùng lao động; có cha hoặc mẹ là người dân tộc thiểu số, bản thân đang cư trú và học tập ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo, khu kinh tế mới, xã đặc biệt khó khăn hoặc đang học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú từ cấp huyện trở lên.
+ Chế độ ưu tiên, cộng thêm điểm khuyến khích cho học sinh dân tộc thiểu số và học sinh diện chính sách trong thi tốt nghiệp THCS và THPT và trong tuyển sinh vào trường THCS và THPT nói trên là cần thiết và phù hợp, đã áp dụng nhiều năm và được nhân dân và học sinh chấp nhận. Riêng việc xét cho lên lớp, Bộ Giáo dục và Đào tạo không có chế độ ưu tiên, cộng thêm điểm khuyến khích cho học sinh dân tộc thiểu số và học sinh diện chính sách.
Cử tri TP. Hải Phòng: “Bên cạnh việc phổ cập trung học phổ thông và nghề, cả nước đang đẩy mạnh phát triển hình thức hoạt động của trung tâm học tập tại cộng đồng, tạo điều kiện để toàn dân được học tập. Cử tri đề nghị Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chính sách cụ thể trong công tác quản lý, đào tạo chuyên môn hỗ trợ cho cơ sở nhằm phát huy khả năng tác dụng của loại trung tâm này”.
Trả lời:
Trong những năm qua, các TTHTCĐ được thành lập và hoạt động nhằm cung cấp cơ hội học tập thường xuyên, đáp ứng nhu cầu được học, được hiểu biết của mọi người trong cộng đồng để nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và xây dựng xã hội học tập ở địa phương. Các hình thức hoạt động của TTHTCĐ rất phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu và điều kiện học tập của từng loại đối tượng người dân trong cộng đồng. Bộ GD&ĐT phối hợp cùng Hội Khuyến học Việt
Để các TTHTCĐ hoạt động có hiệu quả, ngày 18 tháng 3 năm 2005 Bộ GD&ĐT đã có công văn số 2016/GDTX gửi các địa phương về việc hướng dẫn tạm thời hoạt động của TTHTCĐ xã, phường, thị trấn. Sau đó, ngày 20 tháng 5 năm 2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi), tại Điều 46 quy định TTHTCĐ là cơ sở giáo dục thường xuyên được tổ chức tại xã, phường, thị trấn. Sau khi Luật Giáo dục (sửa đổi) có hiệu lực (ngày 1/1/2006), Bộ GD&ĐT sẽ ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ và các văn bản dưới luật khác để tạo cơ chế, chính sách xây dựng, phát triển và phát huy tác dụng của TTHTCĐ trong thời gian tới.
Cử tri tỉnh Thái Bình: “Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp các ngành liên quan xoá bỏ các trung tâm luyện thi đại học do cá nhân mở”.
Trả lời:
Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GD&ĐT luôn tích cực phối kết hợp với các ngành liên quan trong việc xoá bỏ các hình thức dạy thêm, học thêm tràn lan ở nhà trường và xã hội, trong đó có các trung tâm luyện thi đại học không đủ căn cứ pháp lý và điều kiện để hoạt động. Việc chỉ đạo ra đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng sát với chương trình THPT, phù hợp với thời gian quy định của mỗi môn thi, đảm bảo cho những học sinh nắm vững các kiến thức trong chương trình và SGK phổ thông có thể làm được bài cũng là một trong các giải pháp của Bộ nhằm xoá bỏ các trung tâm này.
Chúng tôi cũng đồng tình với ý kiến của cử tri nêu ra, việc xoá bỏ các trung tâm luyện thi đại học nói trên cần sự phối hợp chặt chẽ tích cực, liên tục, đồng bộ, có hiệu quả của các ngành liên quan và nhân dân; trong đó có một vấn đề khá quan trọng và nhạy cảm là thay đổi nhận thức, phá bỏ áp lực tâm lý thi cử của phụ huynh và học sinh.