221
447
Giáo dục
giaoduc
/giaoduc/
1030650
Thận trọng với bảng xếp hạng của Webometrics
1
Article
null
Thận trọng với bảng xếp hạng của Webometrics
,

Vừa qua, một số cơ quan truyền thông đưa tin về kết quả xếp hạng năm 2007 của Webometrics đối với các trường đại học thuộc khu vực Đông Nam Á, theo đó Việt Nam có 7 trường lọt vào 100 trường đại học hàng đầu của khu vực. Sự xuất hiện của thông tin nói trên, trong bối cảnh chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đang là chủ đề nóng, ngay lập tức đã tạo ra hiệu ứng đối với dư luận xã hội.

Đối với các trường đại học Việt Nam, có lẽ cần phát động “nói có với Webometrics”. Trong ảnh là hội thảo toàn quốc về chất lượng giáo dục đại học tổ chức tại đại học Sư phạm kỹ thuật TP.HCM ngày 5.1.2008. Ảnh: Lê Quang Nhật

Nhiều người phấn khởi vì cuối cùng thì Việt Nam cũng đã có được những trường “có hạng” vì được lọt vào danh sách 100 trường hàng đầu của khu vực, nhưng cũng không ít người tỏ ra nghi ngờ kết quả xếp hạng của Webometrics. Điều đáng nói hơn là thứ hạng của các trường có trong danh sách vừa nêu đã được nhắc đến trong báo cáo của Bộ GD-ĐT tại hội nghị chất lượng giáo dục đại học ngày 5.1.2008. 

Sai lệch quá lớn

Thật vậy, trong bảng xếp hạng tháng 7.2007, trong số bảy trường của Việt Nam đã có đến bốn trường hợp mơ hồ hoặc nhầm lẫn! Chẳng hạn, trường có vị trị thứ hai trong số bảy trường của Việt Nam có tên tiếng Anh mơ hồ là “Ho Chi Minh City University of Technology”. Điều này dẫn đến hai cách hiểu khác nhau: người thì khẳng định đây là đại học Bách khoa thuộc đại học Quốc gia TP.HCM, nhưng cũng có những người cả quyết rằng đó là đại học dân lập Kỹ thuật và công nghệ TP.HCM vì tên tiếng Anh trên trang web của trường này chính là “Ho Chi Minh City University of Technology”.

Tương tự, trường số 54 trong danh sách trên có tên tiếng Anh là Viet Nam National University tức là đại học Quốc gia, nhưng không hề nêu rõ đây là đại học Quốc gia Hà Nội hay đại học Quốc gia TP.HCM. Rồi trường có số thứ tự 90 lại một lần nữa mang tên gọi mơ hồ University of Technology mà không ai có thể đoán được đây là trường nào, vì cả hai trường đại học lớn có tên tiếng Việt có thể dịch ra thành University of Technology là đại học Bách khoa Hà Nội và đại học Bách khoa TP.HCM đều đã có mặt trong danh sách (số 62 và 36).

Và có lẽ nhầm lẫn gây khó chịu lớn nhất cho các nhà lãnh đạo và quản lý của đại học Quốc gia TP.HCM là sau khi đã xếp hạng hai trường thành viên là đại học Khoa học tự nhiên và đại học Bách khoa, Webometrics lại rất ưu ái xếp luôn đại học Quốc gia TP.HCM, tức đơn vị “mẹ” của hai thành viên vừa nêu, vào danh sách với vị trí thứ bảy trong số bảy “trường” của Việt Nam mà Webometrics “công nhận”, và là vị trí số 96 trên số 100 trường hàng đầu của Đông Nam Á.

Khi vào trang chủ của Webometrics tìm danh mục (catalogue) các trường đại học Việt Nam trong cơ sở dữ liệu của Webometrics, ta sẽ thấy chỉ có thông tin về 71 đơn vị, bao gồm một cách không phân biệt vừa các trường đại học/cao đẳng và các viện nghiên cứu, vừa các khoa/bộ môn hoặc trung tâm nằm trong các trường đại học hoặc các viện đã nêu. Trong khi chỉ tính riêng số trường đại học và cao đẳng của Việt Nam thì tổng số đã đến 322 đơn vị, một sự chênh lệch quá lớn dẫn đến sự sai lệch tất yếu của các kết quả xếp hạng mà Webometrics đã thực hiện đối với các trường đại học của Việt Nam.

Nguyên nhân của sự thiếu chính xác

Thật ra, mục tiêu và phương pháp của Webometrics đã được nêu rất rõ ràng và minh bạch trên trang chủ của Webometrics. Theo đó, mục tiêu của Webometrics trước hết là nhằm “cổ vũ các trường đại học và các viện, trung tâm nghiên cứu công bố thông tin trên mạng internet”. Và để phục vụ mục tiêu trên, các tác giả của Webometrics đã xây dựng một công thức để chấm điểm và xếp hạng trang web của các trường đại học với bốn chỉ số:

- Kích thước (Size), tính theo số lượng trang web xuất hiện dưới cùng một tên miền (domain) trên 4 công cụ tìm kiếm Google, Yahoo!, Live Search và Exalead.

- Khả năng nhận diện (Visibility), tính theo số các đường dẫn từ bên ngoài đến các kết nối bên trong trên một tên miền.

- Số lượng “file giàu” (Rich File), tính theo số lượng các loại file .doc, .pdf, .ps và .ppt có thể truy xuất từ một tên miền.

- Thư tịch nghiên cứu trên mạng (Scholar) tính theo số lượng các thư tịch khoa học (academic records), tức các bài báo, luận văn luận án, các ấn phẩm khoa học, cùng các trích dẫn (citations) trên một tên miền thông qua việc tìm kiếm với công cụ Google Scholar, là một dịch vụ mới của Google dành cho giới khoa học mà hiện nay vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm.

Tất cả các chỉ số nêu trên đều được tính toán một cách tự động để đưa ra các kết quả xếp hạng mà Webometrics đã công bố từ năm 2004 đến nay.

Chính nhờ khả năng phủ kín (coverage) do việc tính toán tự động này mà Webometrics đã đưa được các quốc gia hoặc các khu vực được xem là vùng trũng của giáo dục đại học như khu vực Nam Mỹ, châu Phi hoặc các quốc gia của khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, vào bảng xếp hạng của mình. Tuy nhiên, khi lựa chọn cách phân tích và xếp hạng tự động như trên thì Webometrics cũng đồng thời đã chấp nhận một cách tất yếu sự rủi ro là sẽ có nhầm lẫn hoặc thiếu sót thông tin vì nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn, các quốc gia hoặc đơn vị ít sử dụng tiếng Anh chắc chắn sẽ bất lợi so với những quốc gia hoặc những đơn vị sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp chính. Cũng vậy, những khác biệt về thói quen lựa chọn và đặt tên miền của các quốc gia/đơn vị khác nhau sẽ dẫn đến những sai lệch mang tính hệ thống trong kết quả xếp hạng của Webometrics.

Mục tiêu ban đầu của Webometrics được thể hiện rõ ngay trong ý nghĩa của từ “webometrics” mà bất cứ ai biết tiếng Anh cũng có thể chiết tự ra thành “web” và “metrics”, tức là “đo lường trang web”, hoàn toàn tương tự với các từ “psychometrics” – đo lường tâm lý, “edumetrics” – đo lường (trong) giáo dục, hoặc một từ khác quen thuộc hơn nhiều ở Việt Nam là “econometrics” mà các nhà khoa học kinh tế ở Việt Nam đã dịch rất đạt thành từ “kinh tế lượng”.

Nên sử dụng kết quả xếp hạng của Webometrics như thế nào?

Kết quả xếp hạng của Webometrics chính là sự mở rộng áp dụng phương pháp “đo lường trang web”, hay nói chính xác hơn là đo lường chỉ số tác động của trang web (WIF, từ viết tắt của cụm từ Web Impact Factor).

Như vậy, hoàn toàn có thể nói rằng việc sử dụng kết quả xếp hạng của Webometrics để xác định vị trí tương đối xét về chất lượng của các trường đại học Việt Nam so với nhau cũng như so với các trường khác trong khu vực và trên thế giới là cách làm hoàn toàn khác với mục đích của Webometrics. Cách hiểu đúng đối với các thứ hạng mà Webometrics đưa ra chỉ có thể là như thế này: những trường có vị trí cao là những trường có trang web tốt xét theo chỉ số tác động đối với cộng đồng. Nói cách khác, đây là những trang web cung cấp dồi dào các thông tin khoa học, một việc hết sức đáng làm và có ý nghĩa rất quan trọng đối với một trường đại học, đặc biệt là các đại học nghiên cứu. Nếu làm tốt điều này (tức có trang web tốt), chắc chắn vị thế của một trường đại học đối với cộng đồng khoa học trong và ngoài nước sẽ ngày càng được nâng cao.

Khi nói rằng Việt Nam (chỉ) có bảy trường lọt vào khu vực top 100 của Đông Nam Á, điều đó cũng đồng thời có nghĩa rằng sự hiện diện, và qua đó là sự tác động, trên mạng cũng như trên thực tế của các trường đại học Việt Nam đối với cộng đồng khoa học quốc gia, khu vực và quốc tế vẫn còn quá ít ỏi so với các trường đại học khác trong khu vực! Điều này là do đâu, câu trả lời chính xác chỉ có thể đến từ các nhà lãnh đạo và quản lý cấp cao của các trường đại học, nhưng có một nguyên nhân có thể chỉ ra ngay mà không sợ sai, đó là trình độ tiếng Anh của các nhà khoa học Việt Nam vẫn còn quá kém.

Vì vậy, trong trường hợp này, thái độ đúng đắn nhất là không nên quá chú ý bắt bẻ những thiếu sót về chi tiết của Webometrics; đồng thời cũng không nên quá quan trọng xem các trường đại học của Việt Nam ai đứng trên, ai đứng dưới trong bảng xếp hạng này. Mặt khác, từng trường đại học của Việt Nam cần tìm hiểu để tận dụng cơ chế xếp hạng tự động này nhằm đẩy mạnh sự hiện diện của mình trong cộng đồng khoa học quốc gia, khu vực và quốc tế, trước mắt là sự hiện diện trên trang web, và lâu dài là sự hiện diện bằng các sản phẩm đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ đạt trình độ khu vực và quốc tế. Để có được sự hiện diện trên trang web này, 10 lời khuyên của Webometrics về “các thực tiễn tốt” là điều các trường cần quan tâm thực hiện, ví dụ như lời khuyên về việc tạo phiên bản tiếng Anh cho các trang web, hay lời khuyên về việc cung cấp các bài báo khoa học lên mạng vv...

Câu hỏi cuối cùng của tác giả bài viết này, là biết đâu một cuộc vận động “nói có” đầu tiên trong giáo dục đại học của Việt Nam do bộ Giáo dục và đào tạo khởi xướng nhằm tăng cường sự hiện diện web của các trường đại học Việt Nam trong cộng đồng khoa học của khu vực và thế giới có thể sẽ đem lại những tác động tích cực trong việc nâng cao chất lượng và vị thế của các trường đại học Việt Nam trong thập niên sắp đến? Mong lắm thay!

TS. Vũ Thị Phương Anh (Giám đốc Trung tâm khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo - ĐHQG TP.HCM) - Theo Sài Gòn Tiếp Thị

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,