,
221
5083
Tác phẩm
tacpham
/vanhoa/tacpham/
882852
William Faulkner
1
Article
443
Văn hoá
vanhoa
/vanhoa/
,
Các bậc thầy văn chương thế giới:

William Faulkner

Cập nhật lúc 21:40, Thứ Tư, 03/01/2007 (GMT+7)
,

(VietNamNet) - William Faulkner đặt hành động tiểu thuyết của mình trong bối cảnh khu vực miền Nam nước Mỹ, lấy đề tài chính là chống phân biệt chủng tộc, phản đối chiến tranh, đề cao tư tưởng nhân đạo; với lối bố cục phức tạp, câu văn dài, có khi chiếm cả trang, dĩ vãng, hiện tại đan xen.  William Faulkner được coi là người báo hiệu cho một nền tiểu thuyết hiện đại.

William Faulkner (25/9/1897 - 6/7/1962)

Giải Nobel Văn học 1949

* Nhà văn Mỹ

* Nơi sinh: Oxford (Missisippi, Mỹ)

* Nơi mất: Oxford (Missisippi, Mỹ)

W. Faulkner (1897-1962)

William Faulkner là con cả trong một gia đình danh giá sa sút. Thời niên thiếu học hành chật vật, năm 17 tuổi bỏ học vào làm việc trong ngân hàng của ông nội. Năm 13 tuổi nhà văn tương lai đã viết thơ tặng một cô bạn gái, nhưng phải chịu thất tình vì nhà nghèo, không có tiền. Năm 1918 W. Faulkner muốn tình nguyện vào quân đội nhưng không được nhận vì vóc người quá nhỏ bé. Về sau ông ghi tên vào học viện không quân ở Toronto, Canada.

Mấy tháng sau khi Thế chiến I kết thúc, W. Faulkner vào học ban ngôn ngữ châu Âu tại trường Đại học Tổng hợp Oxford (bang Missisippi); một năm sau ông bỏ học. Sau những thử nghiệm đầu tiên để trở thành nhà soạn kịch, năm 1920 ông hoàn thành vở Những con rối. W.

Faulkner làm người bán hàng trong một hiệu sách ở New York trước khi trở thành nhân viên bưu cục tại trường đại học cũ của mình, nhưng rồi bị đuổi việc vì ham đọc sách trong giờ làm. Năm 1929, Sartoris - cuốn đầu tiên trong số 15 tiểu thuyết viết về miền đất tưởng tượng Yoknapatawpha - bước đầu mang lại danh tiếng cho ông. Âm thanh và cuồng nộ (1929) là tác phẩm rất thành công của W. Faulkner. Trong thời gian này người phụ nữ mà ông yêu từ thuở nhỏ đã li dị chồng, hai người cưới nhau và có hai con.

Mưu sinh là một vấn đề khốn khó của W. Faulkner. Tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ của ông được giới phê bình đánh giá cao, thậm chí được đồng thanh gọi là “cuốn sách vĩ đại”, nhưng rất khó bán. Để kiếm tiền, trong vòng 3 tuần lễ W. Faulkner viết xong Thánh đường (1931) kể chuyện cô gái trẻ bị một tên cướp cưỡng hiếp, sau phải vào nhà chứa. Cuốn sách quả thực đã trở thành best-seller!

W. Faulkner còn viết nhiều kịch và truyện ngắn. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Pháp và được giới văn chương châu Âu đánh giá rất cao (Faulkner là Chúa trời! - J.P Sartre nói). Năm 1949 ông được trao giải Nobel.

Không lâu sau khi cuốn tiểu thuyết cuối cùng Quân kẻ cướp (1962) ra đời, W. Faulkner bị ngã ngựa trong một chuyến đi chơi. Ba tuần sau ông qua đời vì nhồi máu cơ tim ở tuổi 64.

Vinh quang của W. Faulkner tiếp tục tỏa sáng sau khi ông mất, sách của ông, đặc biệt là Âm thanh và cuồng nộ, được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

* Tác phẩm:

- Giấc mơ ngày của thần điền dã (L’Après - midi d'un faun, 1919), bài thơ đầu tiên đơợc in.

- Những con rối (The marionettes, 1920), kịch.

- Thần điền dã cẩm thạch (The marble faun, 1924), thơ.

- Công lính (Soldier's pay, 1926), tiểu thuyết.

- Muỗi (Mosquitoes, 1927), tiểu thuyết.

- Âm thanh và cuồng nộ (The sound and the fury, 1929), tiểu thuyết.

- Sartoris (1929), tiểu thuyết.

- Khi tôi lâm chung (As I lay dying, 1930), tiểu thuyết.

- Bất khuất (The unvanquished, 1930), tiểu thuyết.

- Thánh đường (Sanctuary, 1931), tiểu thuyết.

- Những số mười ba này (These thirteen, 1931).

- Ánh sáng tháng Tám (Light in August, 1931), tiểu thuyết.

- Pilon (1934), truyện.

- Absalom, Absalom! (1936), tiểu thuyết.

- Đường tới vinh quang (The road to glory, 1936), kịch.

- Gunga Din (1939), kịch.

- Những cây cọ hoang (The wild palms, 1939), tiểu thuyết.

- Hãy xuống đi, Moses (Go down, Moses, 1942), tiểu thuyết.

- Có và không có (To have and have not, 1945), kịch.

- Giấc mơ vĩnh cửu (The big sleep, 1946), kịch.

- Kẻ xâm nhập ám muội (Intruder in the dust, 1948), tiểu thuyết.

- Lễ cầu hồn cho một nữ tu (Requiem for a nun, 1951), tiểu thuyết.

- Một truyện ngụ ngôn (A fable, 1954), tiểu thuyết.

- Thị trấn (The town, 1957), tiểu thuyết.

- Ngôi biệt thự (The mansion, 1959), tiểu thuyết.

- Quân kẻ cướp (The reivers, 1962), tiểu thuyết.

* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:

- Âm thanh và cuồng nộ (tiểu thuyết), Phan Đan - Phan Linh Lan dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1992.

- Ghen tuông, Văn Tâm dịch, in trong Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999.

- Lão Uos, Nguyễn Tuấn Khanh dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000.

- Mặt trời chiều hôm ấy, Đào Thu Hằng dịch, in trong Truyện ngắn châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000.

- Bông hồng cho Emily, Hoàng Hữu Phê dịch, in trong Truyện ngắn thế giới chọn lọc (tập 1), NXB Tác Phẩm Mới, 1985; Truyện ngắn châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn đặc sắc các tác giả được giải thưởng Nobel, NXB Văn Học, 2004.

© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây

 

Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển

Gustaf Hellström, Ủy viên Viện Hàn lâm Thuỵ Điển


William Faulkner căn bản là một nhà văn “địa phương”, một nhà văn gợi cho bạn đọc Thuỵ Điển chúng ta nhớ đến vài nhà tiểu thuyết lớn nhất của mình, Selma Lagerlöf và Hjalmar Bergman. Cái quận Värmland của Faulkner nằm ở miền Bắc bang Mississippi, còn cái Vadköping của ông có tên là Jefferson [I]. Có thể còn đào sâu và mở rộng nữa sự song hành giữa ông và hai đồng bào chúng ta, nhưng thời gian lúc này không cho phép ta ngao du nhiều hơn.

Sự khác biệt - khác biệt lớn - giữa ông và hai nhà văn Thuỵ Điển là ở chỗ bối cảnh sáng tác của Faulkner đen tối hơn nhiều và máu me hơn nhiều so với nơi sinh sống của những kỵ sĩ của Lagerlöf và những nhân vật dị kỳ của Bergman. Faulkner là nhà văn anh hùng ca vĩ đại của các bang miền Nam nước Mỹ với toàn bộ cái hạ tầng đặc trưng của miền này: một quá khứ vinh quang xây dựng trên cơ sở lao động nô lệ da đen rẻ tiền; một cuộc nội chiến và một cuộc thất trận làm tiêu huỷ toàn bộ cơ sở kinh tế cần thiết cho cơ cấu xã hội đương thời; một cuộc suy thoái dài và một sự thất vọng đớn đau tạm thời; và sau hết là một tương lai công nghiệp và thương mại có một cơ chế và chuẩn mực cuộc sống lạ lẫm và thù nghịch đối với người phương Nam và chính Faulkner cũng phải dần dần mới có thể thích nghi.

Các tiểu thuyết của Faulkner là sự miêu tả liên tục và ngày một đào sâu hơn về cái tiến trình đau đớn đó, cái tiến trình mà ông hiểu tường tận và cảm nhận mãnh liệt, bởi bản thân ông sinh ra từ một gia đình bị buộc phải nuốt quả đắng của sự thất bại, nuốt cho đến tận cái lõi bị sâu ăn của quả đắng đó: sự bần cùng hoá, sự mục ruỗng, sự suy đồi dưới muôn vàn dáng vẻ. Ông từng bị gọi là tên phản động. Nhưng thậm chí nếu gọi như thế là đúng trong chừng mực nào đó, thì cái danh xưng này cũng được cân bằng với cảm giác mình có tội, cái cảm giác ngày càng hiện rõ hơn và đắt giá hơn trên tấm vải tối tăm mà ông dệt cần cù không biết mệt.

[Vào thời đó] cái giá của môi trường quý tộc, phong cách hiệp sĩ, lòng dũng cảm và tính cá nhân chủ nghĩa lắm lúc cực đoan bị xem là vô nhân. Tóm lại, liệu chăng có thể diễn đạt cái thế tiến thoái lưỡng nan của Faulkner như sau: trên cương vị nhà văn, ông than khóc và thậm xưng cái lối sống mà bản thân ông, với cảm thức về công bằng và nhân đạo của mình, chẳng khi nào nuốt trôi được. Chính điều này khiến “tính địa phương” của ông trở thành tính phổ quát. Bốn năm chiến tranh đẫm máu đem lại được những đổi thay trong cơ cấu xã hội mà các dân tộc châu Âu, trừ người Nga, từng phải mất một thế kỷ rưỡi để đạt tới.

Những tiểu thuyết quan trọng nhất của nhà văn năm nay 52 tuổi này được viết dựa trên bối cảnh chiến tranh và bạo lực. Ông nội của Faulkner giữ vị trí chỉ huy cao trong nội chiến. Bản thân ông lớn lên trong không khí những kỳ công thời chiến và sự đắng cay cùng nạn nghèo khó sinh ra từ sự thất bại mà người ta không bao giờ thừa nhận. Lúc hai mươi tuổi, ông gia nhập Không quân Hoàng gia Canada, hai bận máy bay rơi, rồi trở về nhà chẳng phải trong tư thế người hùng chiến trận mà là một chàng trẻ tuổi bị chiến tranh làm thương tổn cả về thể xác lẫn tinh thần, triển vọng tương lai mờ mịt, suốt mấy năm trời phải đương đầu với cuộc sống bấp bênh.

Ông tham gia chiến tranh là vì, như cái tôi khác của ông đã nói trong một trong những tiểu thuyết đầu tay: “Người ta không muốn bỏ phí một cuộc chiến tranh”. Thế nhưng từ cái chàng trai từng thèm khát cảm giác mạnh và chiến trận kia dần dần nảy sinh một con người biểu lộ ngày càng mãnh liệt lòng chán ghét chiến tranh, cái nỗi chán ghét chiến tranh mà ta có thể tóm tắt bằng Điều Răn thứ năm trong Kinh Thánh: Con chớ giết người.

Mặt khác, có những điều mà con người luôn luôn phải tỏ ra mình không muốn mang trong lòng. Một trong những nhân vật sau cùng của ông đã nói: “Có đôi điều anh không thể nào mang nổi trong lòng. Bất công và nhục mạ, mất phẩm cách và hổ thẹn. Chẳng vì tiếng tăm cũng chẳng vì tiền - đơn giản là khước từ mang những điều đó trong lòng”. Ta những muốn hỏi làm thế nào có thể dung hòa hai định đề đó với nhau hay làm thế nào Faulkner có thể hình dung sự dung hoà giữa chúng vào cái thời buổi vô luật lệ quốc tế này. Đó là câu hỏi ông vẫn còn để ngỏ.

Vấn đề là, với tư cách nhà văn, Faulkner chẳng quan tâm đến chuyện giải quyết các vấn đề cho bằng thích [đưa ra] những bình luận xã hội học về những đổi thay đột ngột tình trạng kinh tế các bang miền Nam nước Mỹ. Sự thất bại và những hệ quả kéo theo chỉ đơn thuần là mảnh đất để bản anh hùng ca của ông mọc lên. Ông không bị hấp dẫn bởi con người [nói chung] với tư cách cộng đồng mà bị hấp dẫn bởi con người [cá nhân] bên trong cộng đồng, con người cá nhân như một đơn vị cuối cùng trong tự thân nó, bất biến đến lạ lùng [dù] điều kiện bên ngoài [thay đổi đến đâu] Những tấn bi kịch của các cá nhân đó chẳng có gì chung với bi kịch Hy Lạp: họ bị đẩy tới đường cùng không sao thoát nổi chỉ vì những nỗi đam mê của họ mà nguyên nhân là do sự kế thừa, do các truyền thống, và do môi trường, những đam mê bộc lộ ra hoặc theo lối bùng nổ bột phát hoặc chậm chạp bung ra khỏi những cấm đoán kéo dài nhiều thế hệ.

Gần như cứ mỗi tác phẩm mới Faulkner lại càng thâm nhập sâu hơn vào tâm lý con người, vào cái cao cả to tát của con người, sức mạnh của sự hy sinh, sự thèm khát quyền lực, sự tham lam, sự nghèo nàn về tinh thần, sự thiển cận trong tâm trí, sự bướng bỉnh đến độ nực cười, khổ đau, khiếp hãi, và những thác loạn đốn mạt của con người. Với tư cách một nhà tâm lý thấu suốt, ông là bậc thầy chẳng ai sánh kịp trong số mọi nhà tiểu thuyết Anh và Mỹ hiện còn sống.

Cũng chẳng ai trong các đồng nghiệp của ông có được khả năng tưởng tượng kỳ ảo và năng lực tạo ra nhân vật như ông. Những nhân vật vô nhân và siêu nhân của ông, dù bi thảm hoặc hài hước theo một cung cách như ma như quỷ, đều chui ra từ cái đầu của ông và mang một vẻ thật mà chẳng mấy người đang sống thực - kể cả những người gần gũi nhất với chúng ta - có thể đem lại cho chúng ta, những nhân vật đó vận động trong một môi trường có hương vị những cây cối vùng cận nhiệt đới, mùi hương phấn các phu nhân, vị mồ hôi những người da đen, có mùi lừa ngựa, vậy mà vẫn thâm nhập trực tiếp được vào tận nơi ấm áp thoải mái mãi vùng Scandinavia này. Như một họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, ông có cái kiến thức sâu sắc của kẻ đi săn tại vùng săn riêng của mình, có cái chính xác của kẻ chụp vẽ địa hình, và có cái nhạy cảm của nghệ sĩ trường phái ấn tượng.

Ngoài ra - đặt bên nhà văn Joyce và thậm chí nhiều nhà văn khác nữa - Faulkner là nhà tiểu thuyết thực nghiệm lớn trong số những nhà tiểu thuyết thế kỷ 20 này. Hiếm khi nào ông có hai tiểu thuyết tương tự nhau về kỹ thuật. Hình như với lối liên tục đổi mới này ông định mở rộng tầm thế giới cả về địa lý lẫn về đề tài, điều mà cái thế giới hữu hạn của ông không cho phép ông làm được. Ta cũng thấy cái ước vọng thực nghiệm đó trong sự điêu luyện bậc thầy của ông - sự điêu luyện không ai sánh nổi trong số các nhà tiểu thuyết Anh và Mỹ hiện đại - đối với sự phong phú của tiếng Anh, sự phong phú sinh ra từ các thành tố ngôn ngữ khác nhau và những đổi thay định kỳ trong văn phong - từ cái hồn tiếng Anh thời các nữ hoàng Elizabeth cho đến tận vốn từ ngữ nghèo nàn nhưng đầy biểu cảm của người da đen các bang miền Nam nước Mỹ.

Và cũng chẳng ai kể từ Meredith - có thể trừ Joyce ra - lại có thể tạo ra những câu văn vô tận và đầy sức mạnh như những đợt sóng Đại Tây dương [như ông]. Đồng thời, hiếm nhà văn nào cùng cỡ tuổi ông lại có thể địch được ông trong việc đưa ra cả chuỗi sự kiện trong một loạt những câu văn ngắn, mỗi câu như một nhát búa, giáng cho cây đinh ngập lút tận mũ vào thanh gỗ và không bao giờ xê dịch. Trình độ kiểm soát hoàn hảo của ông đối với nguồn ngôn ngữ có thể - và lắm khi thực sự - dẫn ông tới chỗ chồng chất các ngôn từ và các liên tưởng thử thách lòng kiên trì của người đọc trong một câu chuyện đầy kích thích hay phức tạp.

Nhưng sự “ngồn ngộn” [ngôn từ] ở đây chẳng có gì liên quan đến sự khoa trương chữ nghĩa. Nó cũng không hoàn toàn là chứng cứ của sự thanh thoát của trí tưởng tượng; tính phong phú trong ngôn ngữ của ông là ở chỗ từng định ngữ mới, từng liên tưởng mới đều nhằm đào sâu hơn vào cái thực tại mà sức mạnh tưởng tượng của ông đã khơi nên.

Người ta thường mô tả Faulkner như một người theo thuyết định mệnh. Thế nhưng chính ông lại chẳng khi nào tuyên bố mình theo một đường lối triết học nhân sinh nào. Nói vắn tắt, nhân sinh quan của ông có thể tổng kết bằng chính lời của ông: rằng (có thể?) toàn bộ [câu chuyện] có nghĩa là chẳng có [chuyện] gì hết. Nếu đúng như vậy, kẻ hoặc những kẻ tạo nên toàn bộ kết cấu hẳn đã sắp xếp mọi cái theo một cách khác. Song nó cũng vẫn phải có nghĩa gì đấy, bởi vì con người tiếp tục đấu tranh và phải tiếp tục đấu tranh cho tới khi một ngày nào đó mọi việc đều xong.

Thế nhưng Faulkner có một niềm tin, nói đúng hơn là một niềm hy vọng, rằng mỗi con người sớm muộn rồi cũng nhận được sự trừng phạt mà y đáng phải nhận, và sự tự hiến tế đó không chỉ đem lại hạnh phúc cá nhân mà còn bổ sung vào tổng số những việc làm tốt đẹp của loài người. Đó là một niềm hy vọng, mà phần sau của nó nhắc chúng ta nhớ lại niềm tin mạnh mẽ được biểu đạt bởi nhà thơ Thuỵ Điển Viktor Rydberg trong cuộc diễn xướng bản Cantat ngày Hội tốt nghiệp đại học Uppsala năm 1877.

Thưa ngài Faulkner - nhờ hai người bạn thân thiết nhất của ngài từ thuở nhỏ là Tom Sawyer và Huckleberry Finn, tên tuổi của bang miền Nam nước Mỹ nơi ngài chào đời và lớn lên từ lâu đã thành quen thuộc với người Thuỵ Điển chúng tôi. Mark Twain đã đưa tên tuổi dòng sông Mississippi lên bản đồ văn chương. Năm mươi năm sau, ngài bắt đầu một loạt tiểu thuyết nhờ đó ngài đã biến bang Mississippi thành một trong những cột mốc của nền văn chương thế giới thế kỷ 20; những cuốn tiểu thuyết với hình thức không ngừng biến đổi, với sự thấu suốt về tâm lý ngày một sâu xa và riết róng, và với những nhân vật khổng lồ của chúng - cả thiện lẫn ác - những cuốn tiểu thuyết chiếm vị trí độc nhất vô nhị trong nền văn chương Mỹ và Anh hiện đại.

Thưa ngài Faulkner! Giờ đây tôi xin được mời ngài nhận Giải Nobel Văn chương do Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển trao tặng ngài từ tay Hoàng thượng.

·         Phạm Toàn dịch từ tiếng Anh, Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính

© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây

 

Diễn từ Nobel

Tôi cảm thấy giải thưởng này không được trao cho tôi với tư cách một con người mà là cho công trình của tôi – công trình cả một đời sáng tạo trong thống khổ và nhọc nhằn của tinh thần con người, không vì danh và lại càng không màng đến lợi, mà chỉ nhằm để tạo ra từ chất liệu của tinh thần con người một cái gì trước đây chưa từng có. Vì vậy, giải thưởng này chỉ đơn giản là được giao phó cho tôi.

Tìm cách cung hiến khoản tiền trao tặng để phần nào tương xứng với mục đích và ý nghĩa khởi nguyên của nó không phải là việc khó. Nhưng tôi còn muốn làm như vậy trong tiếng pháo tay hoan nghênh nhiệt liệt, bằng cách coi giây phút này như một đỉnh cao để từ đó những chàng trai và những cô gái đã hiến mình cho chính những thống khổ và cơ cực như thế có thể lắng nghe tôi nói, và rồi một ngày kia trong số họ cũng sẽ có một ai đó đứng lên nơi tôi đang đứng ngày hôm nay.

Bi kịch ngày nay của chúng ta là nỗi sợ hãi về thể xác bao trùm, phổ quát, đeo đẳng lâu đến mức giờ đây chúng ta đã quen với việc chịu đựng nó. Không còn những vấn đề của tinh thần nữa. Chỉ còn một câu hỏi: Khi nào tôi sẽ bị nổ tung? Vì lẽ đó, người cầm bút trẻ tuổi hôm nay đã lãng quên những vấn đề xung đột nội tại của tâm hồn con người; chỉ riêng đề tài đó làm nên tác phẩm hay, bởi đó là điều duy nhất xứng đáng để viết, xứng đáng với nỗi thống khổ và nhọc nhằn.

Hắn phải học lại những vấn đề ấy. Hắn phải tự dạy mình rằng hèn kém nhất trong mọi thứ là sợ hãi, và tự dạy mình rằng, hãy vĩnh viễn quên điều đó, đừng dành khoảng trống nào trong văn phẩm của hắn cho bất cứ cái gì khác ngoài những chân lí cổ sơ và sự thực của con tim, những chân lí phổ quát xưa cũ mà nếu thiếu chúng, câu chuyện nào cũng sẽ trở nên phù du và đáng bị nguyền rủa - đó chính là tình yêu, danh dự, lòng xót thương, sự kiêu hãnh, lòng trắc ẩn và đức hi sinh. Chừng nào chưa làm điều đó, hắn còn bị giày vò bởi một lời nguyền.

Hắn không viết về tình yêu mà về dục vọng, về những thất bại mà trong đó chẳng kẻ nào mất mát điều gì đáng giá, về những chiến thắng vô vọng, và tệ hại hơn hết, không có cả tình thương và lòng trắc ẩn. Những phiền muộn của hắn không khắc sâu trên một lóng xương nào của muôn loài, không để lại vết sẹo nào. Hắn không viết về trái tim mà chỉ viết về những tuyến cơ thể.

Chừng nào chưa học lại những điều đó, hắn còn viết như thể hắn đứng giữa muôn người mà ngắm ngày tận thế của họ. Tôi từ chối chấp nhận ngày tận thế của con người. Thật quá dễ nói rằng con người bất tử chỉ vì hắn có khả năng chịu đựng: rằng khi tiếng chuông cuối cùng của số phận bất hạnh gióng lên rồi dần tắt lịm từ mỏm đá vô dụng cuối cùng nằm khô khốc trong buổi hoàng hôn cuối cùng đỏ rực đang hấp hối, rằng ngay cả khi ấy vẫn còn một âm thanh: giọng nói yếu ớt không mệt mỏi của hắn, vẫn tiếp tục nói.

Tôi khước từ chấp nhận điều này. Tôi tin tưởng rằng, con người không chỉ chịu đựng: hắn sẽ thủ thắng. Hắn bất tử, không phải vì hắn là sinh vật duy nhất có một giọng nói không mệt mỏi, mà bởi lẽ hắn có linh hồn, một tinh thần có khả năng trắc ẩn, hi sinh và chịu đựng. Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều ấy. Đặc quyền của hắn là giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn họ, bằng cách nhắc nhở con người về lòng can đảm, danh dự và hi vọng, lòng kiêu hãnh và trắc ẩn, tình thương và đức hi sinh, những gì từng là vinh quang trong quá khứ của họ. Tiếng nói của nhà thơ không chỉ ghi lại ký ức về con người, mà nó phải là điểm tựa, là trụ cột giúp con người chịu đựng và thủ thắng. 

  • Tân Đôn dịch, Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính

© Culture Globe


 

[I] Quê hương Selma Lagerlöf, một địa danh được bà thường xuyên sử dụng làm bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của mình. Tác giả muốn nêu bật sự tương đồng giữa cái “địa phương tính” trong văn của Lagerlöf với văn của Faulkner, bằng cách so sánh hạt Värmland của Lagerlöf với bang Missisippi của Faulkner, và thị trấn Värmkoping của Lagerlöf với hạt Jefferson (thuộc bang Missisippi) “của Faulkner”. - TTCD.

,
,