“Nam bộ đất và người” – hay câu chuyện về Cao Văn Lầu
15:01' 25/12/2003 (GMT+7)
Di ảnh cụ Cao Văn Lầu

(VietNamNet) - Nam bộ là mảnh đất có quá trình hình thành và phát triển trẻ nhất so với Bắc bộ và Trung bộ (xưa nay quen gọi hai miền: Nam và Bắc). Công cuộc “Nam tiến” khởi công từ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (còn gọi là Kính) từ năm 1698. Kể từ đó lịch sử khai hoang lập ấp mở rộng diện tích đất nước kéo đến tận cùng đất Mũi Cà Mau.  

Nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển Nam bộ là một trong những công trình khởi xướng của Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi bài viết trong tập sách phản ảnh một phần về đất nước, con người gắn liền với phong tục tập quán, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng… của người Nam bộ. Nhiều bài viết về Sài Gòn (TP.HCM), Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp Mười, Bình Dương, Bình Phước, Đồng bằng sông Cửu long, Hà Tiên (Kiên Giang), Bà Rịa – Vũng Tàu, Bạc Liêu, Trà Vinh, Long An, Đồng Nai với 51 bài viết. Đáng chú ý có hai bài viết về lịch sử và cũng là cái nôi văn hóa rất đặc trưng Nam bộ đó là loại hình nghệ thuật Cải lương bản Dạ cổ hoài lang gắn liền với tên tuổi Cao Văn Lầu.  

Bìa sách "Nam bộ đất và người"

Trần Đức Thuận với “Cuộc đời Cao Văn Lầu và nguyên nhân ra đời bản Dạ cổ hoài lang” đã khắc họa chân dung Cao Văn Lầu, người sinh ra trong gia đình ông Cao Văn Giỏi (Chín Giỏi), “gồm hai ông bà và sáu đứa con”  – một trong “20 gia đình nông dân ở Thuận Lễ (Tân An) vì không chịu nổi cảnh hà khắc ở địa phương nên đã lìa bỏ quê hương dìu dắt về phía Nam để tìm nơi sinh sống” đến Gia Hội (Bạc Liêu), khi ấy Cao Văn Lầu 4 tuổi. Năm 1900, vì gia đình túng quẫn, Cao Văn Lầu được cha gửi đến “Sư trụ trì chùa Vĩnh Phước An” cho Hòa thượng Minh Bảo,  “ngày ngày tụng kinh kệ, đêm đêm học chữ Nho”. Năm 1913 ông cưới vợ là cô Trần Thị Tấn. Trong khoảng thời gian này, ông đã “sáng tác được một bản ngắn mang tên là Bá điểu sau đổi lại Thu phong gồm tám câu nhịp 4, bản này sau đó được soạn giả Trịnh Thiên Tư đặt lời ca Mừng khi gặp bạn, ghi lại trong sách Ca nhạc cổ điển” được thầy là Nhạc Khị ghi nhận. Năm 1917 ông đã sáng tác thêm một nhạc khúc gồm 22 câu rất độc đáo, nhưng chưa kịp sửa chữa để trình thầy thì gặp chuyện buồn. Người vợ trẻ từ lúc về nhà chồng đến nay đã tròn ba năm mà chưa có dấu hiệu thai nghén, đã bị đuổi ra khỏi nhà vì tội “thất xuất”. Thương vợ, ông đã lén gặp bà và sau đó ông sửa chữa lại 22 câu do ông sáng tác trước đây, rồi bỏ bớt còn 20 câu nhịp đôi và “tiếp tục đặt lời ca theo đúng chủ đề Chinh phụ vọng chinh phu do thầy đã chọn. Đặt được vài câu thì hình bóng của người vợ hiền lại lóe lên rõ mồn một trong tâm trí, ông than vãn dặn dò: “Lòng dầu say ong bướm, xin cũng đừng phụ nghĩa tào khang” … Sư Nguyệt Chiếu sau đó lý giải và đặt tên: “Cái chủ đề Chinh phụ vọng chinh phu mà nhạc sư (Nhạc Khị) đưa ra để làm kim chỉ nam cho các đồ đệ sáng tác là căn cứ vào nội dung của bản Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn, theo nội dung này thì nàng Tô Huệ đêm đêm ngồi dệt gấm, hễ nghe tiếng trống vọng về lại liên tưởng đến hình bóng của chồng. Bản nhạc và lời ca của chú Lầu tuy cũng còn vài điểm bất nhất nhưng cái chung vẫn diễn tả được tâm tư của nàng Tô Huệ. Vậy cứ theo tích này mà đặt tên chung cho cả bản nhạc và lời ca của cháu là Dạ cổ hoài lang”.

 

“Từ đó đến năm 1974, Cao Văn Lầu tiếp tục sáng tác thêm được 10 bản nữa… riêng bản Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên dạng như các bản cổ nhạc khác mà dần dần biến đổi hình thức, phát triển thành bản Vọng cổ làm thay đổi một phần lớn bộ mặt Cải lương. Sau đó “được phát triển thành nhịp 4, nhịp 8, nhịp 16, nhịp 32… và được gọi tên là Vọng cổ một bản trụ cột của cải lương Nam bộ. Tác giả Trần Phước Thuận  đã xác định: “Ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu Ngọ (nhằm ngày 19-09-1918) là ngày ra đời của bản Dạ cổ hoài lang.

 

Nam bộ xanh tươi và trù phú.

Vài nét về sự ra đời nghệ thuật cải lương với Vọng cổ để hiểu thêm về bi kịch tình yêu đã hình thành một Dạ cổ hoài lang trở nên bất hủ chính là vì mối tình chung thủy của Cao Văn Lầu – ông tổ của cải lương dường như lay động đất trời, nên “Một thời gian sau người vợ trẻ lại báo tin – nàng đã có thai, đây là cái tin vui có thể nói là vui nhất trong đời của nhạc sĩ Cao Văn Lầu”.

 

Tập sách “Nam bộ đất và người” (tập 2) dày gần 480 trang do nhóm tập thể Phó giáo sư Huỳnh Lứa, Tiến sĩ: Đặng Văn Thắng, Hồ Hữu Nhựt, Quách Thu Nguyệt, Trần Thị Mai do Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Nhà xuất bản Trẻ thực hiện. Trong đó có nhiều bài viết phong phú về sử liệu của những nhà nghiên cứu sử, văn học dân gian… về “Đất Hà Tiên và dòng họ Mạc"; Những nhận định về “Họ Mạc đúc tiền”; "Địa đạo Củ Chi – Huyền thoại làng ngầm"… hay về “Nhà thơ mù yêu nước đất Đồng Nai anh dũng"; "Lực lượng Thanh niên xung phong thành phố Hồ Chí Minh tham gia xây dựng Đắc Lắc" (Nam Tây Nguyên)… hay về văn hóa tín ngưỡng như: “Yếu tố văn hóa Việt trong trang trí tại các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh"; "Đền thờ Bác Hồ ở Nam bộ"; "Múa dân gian các tộc người Mạ, Chơ Ro, Xtiêng vùng Đông Nam bộ”… hay văn hóa sông nước Cần Thơ, Đồng Tháp Mười…

  • Nguyễn Tý

Gửi tin qua Mobile Gửi tin qua E-mail In tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC:
Sách mới cho mùa Giáng sinh! (20/12/2003)
Nhận diện mối tình Trọng Thủy - Mỵ Châu (19/12/2003)
Lắng nghe "Tiếng vọng những mùa qua" (19/12/2003)
Duyên thơ với lịch thơ (11/12/2003)
Tổng kết đời văn qua "Tuyển tập" (08/12/2003)
“Tác gia kịch nói và kịch thơ” – chân dung nghệ sĩ Sân khấu của Hoài Anh (08/12/2003)
Trao giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2002- 2003 (05/12/2003)
"Mr. Peabody's Apples" của Madonna đứng đầu Top cuốn sách bán chạy nhất (03/12/2003)
Nguyễn Văn Hầu và "Diện mạo Văn học dân gian Nam bộ" (01/12/2003)
465 người thi viết truyện ngắn cho thanh niên, học sinh (29/11/2003)
Trao giải thưởng cuộc thi viết ''Vì biển xanh quê hương'' (26/11/2003)
Viết văn và làm khoa học vì người nghèo (26/11/2003)
Thầy, cô qua những trang văn (18/11/2003)
Các cây viết trẻ TP.HCM nghĩ gì? (15/11/2003)
Xem tiep Tro ve dau trang