Chỉ mới tham gia Eurovision lần thứ 2 (bắt đầu từ 2003) nhưng quốc gia non trẻ này đã làm tròn mắt những nhà chuyên môn và cả những nước tham gia Eurovision từ rất lâu vì tối 15/5 vừa qua, Ukraine đã bước lên bục cao nhất khi nữ ca sĩ Ruslana đã đem về cho Tổ quốc giải thưởng âm nhạc phổ thông danh giá nhất Châu Âu: Eurovision 2004.
|
Biểu trưng của Eurovision 2004 | |
|
Đáng ngạc nhiên nhất là “Tứ trụ triều đình” âm nhạc Châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Thụy Điển lại không hề đứng trong Top 5 nước có số điểm cao nhất. Thụy Điển đến dự Eurovision với sự vinh danh của mọi người dành cho huyền thoại ABBA nhân kỉ niệm 30 năm ngày họ trình làng ca khúc “Waterloo” (Eurovision 1974) nhưng cuối cùng lại về hạng 6 với ca khúc “It hurts” qua phần trình bày của Lena Philipsson. Nhưng thất vọng nhất vẫn là Anh quốc, với bề dày âm nhạc truyền thống, là quốc gia có sức lan tỏa rất lớn tới nền âm nhạc phổ thông đại chúng nhưng cuối cùng họ chỉ đứng chỉ đứng thứ 16 với số điểm chỉ bằng 1/10 so với chàng tân binh Ukraine.
|
Ruslana Lyzchicko |
Danh hiệu cao quý nhất thuộc về cô gái đến từ thủ đô Kiev, Ruslana Lyzchicko. Cả cầu trường sân vận động Abdi Ipekci của thành phố Istabul (Thổ Nhĩ Kỳ) đã nổ tung khi cô cùng tốp múa của mình nổi lửa bằng “Wild dances”, một ca khúc vui tươi và sinh động. Ruslana đã làm mọi người tạm quên đi cuộc chiến tranh đang kéo dài ở phía bên biên giới nước mình mà bay đến với quê hương cô, quê hương của dãy núi Carpathian quanh năm mây phủ, quê hương của bờ biển Đen phía bên kia biên giới Thổ Nhĩ Kỳ…
|
Trong niềm vui chiến thắng |
Trước Ruslana, Ukraine mới chỉ dành được thứ hạng 14 của cuộc thi Eurovision 2003 với nam ca sĩ Olexandr Ponomaryov, tuy thế nhiều người đánh giá đây là vẫn là một quốc gia có nền âm nhạc khá phát triển vì sau khi tách ra khỏi liên bang Xô viết, Ukraine vẫn thừa hưởng được trong mình một nền móng âm nhạc khá vững chắc. Những tên tuổi như Sviatoslav Richter (Piano), David Oistrakh (Violon), Milla Jovovich (ca sĩ, diễn viên điện ảnh)… đã được thừa nhận từ rất lâu và với thế hệ đương thời, người ta đang đặt niềm hy vọng vào những Marv Machura, Enver Izmailov, Natalka Karpa… và cả Ruslana.
Tuy bây giờ người ta mới nhắc nhiều về ca khúc “Wild dances” nhưng ở Ukraine nó đã nằm Top nhiều tuần liền và đã giành một đĩa bạch kim của hãng đĩa Comp Music (một chi nhánh của EMI khổng lồ). Và bản thân Ruslana cũng đã rất nổi tiếng ở đây. Nếu kể luôn cả những giải thưởng mà cô đã gặt hái được thì có thể nói cô là ngôi sao sáng nhất của dòng nhạc phổ thông Ukraine đương đại. Không những thế, cô tự làm lấy tất cả mọi thứ, từ sáng tác, thu âm, sản xuất đến tập vũ đạo cho tốp múa của mình rồi quay video clip. Năm sau Eurovision sẽ tổ chức bữa đại tiệc 50 năm của mình tại Ukraine.
|
24/5 này là sinh nhật của cô, quả là một niềm vui trọn vẹn |
Thành lập từ năm 1955 lấy theo cảm hứng từ đại hội nhạc trẻ San Remo của Ý, đến nay Eurovision đã được xem là một trong những liên hoan âm nhạc hàng năm có sức thu hút mạnh mẽ nhất. Và cũng từ đây đã sản sinh ra rất nhiều giọng ca, gương mặt cho làng nhạc thế giới, từ Francoise Hardy, Guy Mardel, France Gall (Pháp), Nana Mouskouri, Vicky Leandros, Anne Marie David (Luxemboug ), Matt Monro, Karel Gott (Áo), Matt Monro, Mary Hopkin, Cliff Richard, Brotherhood of man (Anh) cho đến Julio Iglesias (Tây Ban Nha), Sandra & Andres (Hà Lan), Massimo Ranieri (Ý)… Hy vọng rằng với bề dày lịch sử cũng như bằng uy tín vốn có của mình, Eurovision tiếp tục trình làng những gương mặt mới, góp phần đa dạng hoá âm nhạc khắp nơi và trở thành điểm hẹn của những người yêu nhạc.
Dưới đây là kết quả của Eurovision 2004:
STT |
Tên quốc gia |
Ca sĩ (Nhóm nhạc) |
Tên ca khúc |
1 |
Ukraine |
Ruslana Lyzchicko |
Wild Dances |
2 |
Serbia & Montenegro |
Zeljko Joksimovic |
Lane Moje |
3 |
Hy Lạp |
Sakis Rouvas |
Shake it |
4 |
Thổ Nhĩ Kỳ |
Athena |
For real |
5 |
Síp |
Lisa Andreas |
Stronger every minutes |
6 |
Thụy Điển |
Lena Philipsson |
It hurts |
7 |
Albania |
Anjeza Shahini |
The image of you |
8 |
Đức |
Max |
Can't wait until tonight |
9 |
Bosnia & Herzegovina |
Deen |
In the disco |
10 |
Tây Ban Nha |
Ramon del Castillo |
Para llenarme de ti |
11 |
Nga |
Julia Savicheva |
Believe me |
12 |
Malta |
Julie và Ludwig |
On again ... off again |
13 |
Croatia |
Ivan Mikulic |
You are the only one |
14 |
Macedonia |
Tose Proeski |
Life |
15 |
Pháp |
Jonatan Cerrada |
A chaque pas |
16 |
Anh |
James Fox |
Hold on to our love |
17 |
Ba Lan |
Paweł Rurak-Sokal |
Love song |
18 |
Rumani |
Sanda |
I admit |
19 |
Iceland |
Jonsi |
Heaven |
20 |
Hà Lan |
Re - Union |
Without you |
21 |
Áo |
Tie - Break |
Du bist |
22 |
Bỉ |
Xandee |
1 life |
23 |
Ai Len |
Chris Doran |
If my world stopped turning |
24 |
Na Uy |
Knut Anders Sorum |
High |
|