Kinh tế: Điểm sáng trong quan hệ Việt - Mỹ
Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ đã có những bước phát triển nhảy vọt kể từ khi Hiệp định Thương mại song phương (BTA) bắt đầu có hiệu lực ngày 10/12/2001.
Kiểm tra hàng xuất khẩu. |
Theo BTA, Mỹ đồng ý dành cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường (NTR) trên cơ sở được sự chấp thuận hàng năm theo luật định của Quốc hội Mỹ. Trên thực tế, các Tổng thống Mỹ đã liên tiếp dành cho Việt Nam quy chế NTR kể từ năm 1998. Đổi lại, Việt Nam đồng ý thực hiện hàng loạt biện pháp cải cách kinh tế theo hướng thị trường, dành quy chế ưu đãi cho các sản phẩm dịch vụ xuất khẩu của Mỹ và cam kết bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Mỹ vào Việt Nam.
Hiệp định Thương mại song phương đã góp phần làm tăng vọt xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Theo số liệu của Hải quan Mỹ, năm 1993, Việt Nam chưa hề xuất khẩu sang Mỹ bất kỳ một sản phẩm nào và cũng chỉ nhập khẩu từ Mỹ vẻn vẹn 7 triệu USD. Sau khi Tổng thống Bill Clinton quyết định chấm dứt cấm vận buôn bán với Việt Nam ngày 3/2/1994, hàng hóa của Việt Nam bắt đầu tiếp cận thị trường Mỹ và ngay trong năm đầu tiên này, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã đạt 50,5 triệu USD. Sau BTA, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng mạnh từ 1.053 triệu USD năm 2001 lên 5.276 triệu USD năm 2004. Việt Nam hiện đang nhập khẩu hơn 1 tỷ USD mỗi năm từ thị trường Mỹ. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào Mỹ là hàng dệt may, thủy hải sản, dầu khí, giày dép và đồ gỗ gia dụng. Việt Nam nhập khẩu từ Mỹ chủ yếu là máy bay, máy công cụ và thiết bị y tế.
Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng tới 5 lần kể từ sau BTA, nhưng Việt Nam cũng chỉ mới chiếm chưa đầy 0,4% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ. Với kim ngạch nhập khẩu 1.764 tỷ USD năm 2004, Mỹ đang là thị trường khổng lồ cho các loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam. Nhu cầu của thị trường Mỹ rất đa dạng, có thể tiếp nhận cả các loại sản phẩm đắt tiền lẫn hàng tiêu dùng giá rẻ. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế đã được cải thiện và cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế đã được cải thiện và cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng phong phú. Kể từ khi BTA có hiệu lực, các doanh nghiệp Việt Nam đã hiểu biết hơn về thị trường Mỹ, trong khi mối quan hệ nói chung giữa hai nước đang từng bước được cải thiện. Tất cả những nhân tố đó đang tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam tiếp cận và mở rộng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, năng lực cung cấp hàng hóa và khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung vẫn còn hạn chế. Một trong những điểm yếu dễ nhận thấy của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ là quy mô sản xuất nhỏ, nên không đủ khả năng đáp ứng những đơn hàng lớn. Mặc dù hàng Việt Nam đã đi vào thị trường Mỹ từ đầu thập kỷ 1990, nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ trực tiếp tiếp cận thị trường này từ sau BTA. Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh nước ngoài đã có mặt trên thị trường Mỹ từ rất lâu trước đó. Điều này đang đặt ra những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận và mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường Mỹ. Ngoài ra, các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa của Mỹ cũng đang tạo ra những rào cản cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là hai vụ kiện "bán phá giá" cá da trơn và tôm đông lạnh.
Theo ước tính của Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, năm 2005, Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ từ 5,7 đến 6 tỷ USD. Dệt may vẫn đang là nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, với khoảng 2,74 tỷ USD/năm trong giai đoạn hiện nay. Sản phẩm dệt may của Việt Nam đang ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà nhập khẩu Mỹ, nhờ chất lượng tốt và bảo đảm được thời hạn giao hàng. Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITIC) cho rằng, Việt Nam là một trong những nước hàng đầu ở Châu Á có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc trong lĩnh vực dệt may. Hiệp hội nhập khẩu dệt may Mỹ cũng cho biết Việt Nam là sự lựa chọn thứ hai của họ sau Trung Quốc khi tìm kiếm nguồn cung cấp hàng từ Châu Á. Tuy nhiên, bước sang năm 2005, hàng dệt may Việt Nam đang phải chịu sức ép rất lớn do hạn ngạch, trong khi các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là Trung Quốc đã được phép xuất khẩu không hạn chế vào thị trường Mỹ. Thủy hải sản vẫn chiếm vị trí thứ hai trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam vào Mỹ, nhưng tôm đông lạnh xuất khẩu đã giảm hơn 40% trong năm 2004, do tác động của vụ kiện “bán phá giá”. Tôm đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ tiếp tục giảm trong những tháng đầu năm nay, do các nhà nhập khẩu Mỹ yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam phải nộp tiền đặt cọc thuế chống phá giá cho Hải quan Mỹ. Dù vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ trong ba tháng đầu năm 2005 cũng đã đạt 1,7 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang 1,5 tỷ USD, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2004.
Về đầu tư, Đại sứ Mỹ tại Hà Nội Michael Marine cho biết, tổng đầu tư trực tiếp của các công ty Mỹ vào Việt Nam hiện đạt khoảng 2,6 tỷ USD, trong đó 730 triệu USD được đầu tư trực tiếp từ Mỹ và 1,9 tỷ USD từ các công ty con của Mỹ ở nước ngoài. Ông Michael Marine cho biết, Mỹ là nước đầu tư thực tế lớn nhất vào Việt Nam trong năm 2004, với 531 triệu USD, chiếm 19% tổng giá trị đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Lĩnh vực đầu tư lớn nhất của các công ty Mỹ vào Việt Nam là dầu lửa, chiếm gần 1 tỷ USD. Nhiều công ty Mỹ cũng đang quan tâm tới việc đầu tư vào lĩnh vực chế tạo và dịch vụ ở Việt Nam.
Viện trợ kinh tế tay đôi của Mỹ cho Việt Nam cũng đang tăng nhanh trong thập kỷ vừa qua. Tổng giá trị các chương trình viện trợ do Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) giám sát và thực hiện ở Việt Nam đã tăng từ dưới 2 triệu USD năm 1996 lên 12,5 triệu USD năm 2003. USAID có kế hoạch viện trợ cho Việt năm 11 triệu USD trong tài khóa 2004 và 13 triệu USD trong tài khóa 2005. Theo báo cáo của Cơ quan Nghiên cứu của Quốc hội Mỹ (CRS), tổng viện trợ của Mỹ cho Việt Nam, kể cả các chương trình của USAID, trong tài khóa 2003 đã lên tới 40 triệu USD. Các chương trình viện trợ lớn của Mỹ cho Việt Nam gồm phòng chống HIV/AIDS, chăm sóc trẻ em, trao đổi giáo dục, trợ giúp lương thực thực phẩm và hỗ trợ cho việc thực hiện BTA.
Đại sứ Marine cho biết Mỹ hoàn toàn ủng hộ Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ông Marine cho rằng, đây là bước đi tiếp theo tự nhiên sau khi hai nước đã bắt tay vào thực hiện BTA. Ông Marine cũng tin rằng, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài, trong đó các nhà doanh nghiệp Mỹ./.
(Theo Tin tức)