Đệ nhị thế chiến - Diễn biến trên các mặt trận chính
Đệ nhị thế chiến (1939-1945) đã diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu (mặt trận phía Tây); mặt trận Xô- Đức (mặt trận phía Đông); mặt trận Bắc phi; mặt trận châu Á – Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, trong đó, mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Đệ nhị thế chiến là Mặt trận Xô - Đức.
|
| Mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Đệ nhị thế chiến là Mặt trận Xô - Đức. |
Chiến trường châu Âu
Đức bành trướng và sự ngăn chặn của Liên Xô
Ngày 1/9/1939, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, Đức xâm lược Ba Lan, khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan. Ngày 17/9, lực lượng Liên Xô tiến vào Ba Lan từ phía Đông, với lý do bảo vệ. Sự xâm nhập từ phía Đông của một nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải ra lệnh quân đội rút khỏi đất nước và tổ chức lại ở Pháp. Đến ngày 6/10, Ba Lan đã bị Đức, Liên Xô và các đồng minh của các nước này chiếm giữ hoàn toàn.
Ngay sau đó, lực lượng Liên Xô bắt đầu tiến quân vào nhằm giải phóng các nước cộng hoà gần Biển Ban-tích. Cũng vào lúc này, Đức và các nước Đồng Minh phương Tây đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười, không một phía nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi cả hai bên đều tính giành các nước Scandinavi còn lại và các khu mỏ quặng sắt quý giá ở Thụy Điển.
Tháng 4/1940, hai phía ngẫu nhiên bắt đầu hành quân cùng lúc và kết quả là Đức chiếm đóng được Đan Mạch trong khi một cuộc xung đột xảy ra tại Na Uy (xung đột đầu tiên giữa quân Đồng Minh phương Tây và các Trục quốc). Cuộc xung đột tại Na Uy cho thấy lực lượng hai phía là cân bằng, diễn biến nghiêng về phía Đức khi nước này khởi sự một cuộc tấn công vào Pháp Ngày 10 tháng 5, bắt buộc các lực lượng Anh và Pháp đang ở Na Uy phải rút lui.
Cuộc tấn công vào Pháp và các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg diễn ra rất nhanh chóng và hiệu quả. Trong vòng một tháng lực lượng Anh phải rút khỏi lục địa. Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã tê liệt). Đến cuối tháng 6/1940, Pháp đã đầu hàng, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết phần lớn các lãnh thổ, phần còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành.
Sau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn nước Anh chống lại Đức. Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các tàu ngầm U-Boot nay có thể sử dụng các cảng Pháp và Hải quân hoàng gia Anh. Các tàu ngầm được dùng để cản trở việc đưa hàng hoá vào theo đường biển. Nhánh thứ hai là một cuộc không chiến trên bầu trời Anh dùng không quân Luftwaffe để tiêu diệt Không quân hoàng gia của Anh, với ý định sử dụng ưu thế không gian để đổ bộ. Đến năm 1941, khi Anh vẫn còn đứng vững và vì một số nỗi lo âu khác nổi lên, Đức rút lực lượng không quân ra khỏi nước Anh.
Mặt trận phía đông
Cuộc tấn công kịch liệt nhất trong chiến tranh này xảy ra tháng 6 năm 1941, khi Đức cắt đứt thỏa thuận không xâm lược với Liên Xô và tiến hành chiến dịch Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ để chiếm đóng Moscow trước cuối năm. Các lực lượng Đức tiến lên nhanh chóng, bắt giữ được hàng triệu và tiêu diệt vô số quân Xô Viết. Họ tiến được một khoảng cách khá xa, nhưng cuối cùng không chạy đua được với thời gian, cho nên không hoàn thành mục tiêu. Khi mùa đông đến, Liên Xô phản công, bắt Đức phải dừng lại ngay tại ngoại ô Moscow.
Tuy bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941 nhưng Đức tái tấn công vào năm 1942, tiến đến sát dãy núi Caucasus, nhưng cũng bị Liên Xô phản công vào mùa đông, làm nhiều quân Đức chết, phản ánh qua việc tập đoàn quân số 6 Đức bị tiêu diệt tại Stalingrad. Trong mùa hè năm 1943, trận chiến vòng cung Kursk đã tiêu diệt nhiều đơn vị Đức không thể thay được, nhất là các đơn vị tăng thiết giáp.
Từ đó cho đến khi hết chiến tranh, quân Liên Xô có thể hành quân tấn công tại mặt trận phía Đông suốt năm. Đến cuối năm 1944, quân Liên Xô đã giành lại được phần lớn số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và ngày càng đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây, cho đến khi cuối cùng xuyên qua Đông Âu và ngay cả Đức khi chiến tranh sắp kết thúc. Nhiều đồng minh của Đức bị sụp đổ khi lực lượng Liên Xô tiến vào Rumani, Hungari, và khu vực Balkan. Sau cùng quân Liên Xô đã khống chế được Berlin vào năm 1945.
Chiến trận tại phía Đông có sự tham gia của nhiều nhân lực và vật lực hơn bất cứ mặt trận nào khác trong chiến tranh. Các cuộc tấn công và phản công bao phủ hàng vạn kílômét vuông, đưa đẩy mặt trận qua hai phía đông tây trong suốt ba năm. Tính hết, Đức dành 80% phí tổn chiến tranh vào mặt trận phía Đông. Hầu hết các lực lượng của Liên Xô cũng như các viện trợ quân sự các nước Đồng Minh gửi đến Liên Xô được dồn vào mặt trận phía Đông.
Mặt trận phía Tây
Ngày 6 tháng 6 năm 1944 các lực lượng Đồng Minh phương Tây đổ bộ vào bờ biển Normandy, một lãnh thổ của Pháp đang bị Đức chiếm đóng. Khi chiến dịch này thành công, họ tiến sâu vào Pháp, đuổi quân Đức ra khỏi Pháp, nhưng thường bị thiếu tiếp tế cũng như bị quân Đức đang rút lui cản trở. Các cuộc đổ bộ khác tại miền nam Pháp cuối cùng giải phóng nước này.
Khi tiến đến ranh giới Đức, lực lượng Đồng Minh phải dừng lại để chờ tiếp tế. Việc này tạo một cơ hội cho lực lượng Đức củng cố phòng thủ chống lại cuộc tấn công kế tiếp. Việc này dẫn đến Chiến thuật Vườn Chợ, khi quân Đồng Minh cố gắng xuyên thủng Hà Lan và qua sông Rhine để kết thúc chiến tranh vào năm 1944. Chiến thuật này bị thất bại và lực lượng Đồng Minh tiến đến Đức chậm hơn đã dự kiến.
Lực lượng phe Trục thua cuộc tại châu Âu
Tình hình Đức cuối năm 1944 là vô vọng. Các Đồng Minh phương Tây đang tiến vào biên giới Đức từ phía tây, chỉ tấn công thêm một lần nữa là chiếm được khu vực công nghiệp Rhineland. Liên Xô cũng đang ở một vị trí tương tự ở phía đông, không lâu sẽ vào đến tận Berlin. Các trận đánh bom hàng loạt từ Anh và Mỹ đã biến nhiều khu vực Đức thành gạch vụn, khiến ngành công nghiệp phải giải tán.
Đang bị bao vây từ các phía đông, tây và trên cao, Hitler đánh canh bạc cuối cùng để hy vọng không thua cuộc. Để tái tạo lại chiến thuật thành công vào năm 1940 đối với các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, các lực lượng Đức tấn công vào giữa mùa đông để chia sẻ các lực lượng Đồng Minh ở Bỉ. Phòng tuyến Đồng Minh bị uốn cong, nhưng không bị phá vỡ và cuối cùng phe Đồng Minh giành thắng lợi trong cuộc tấn công Ardennes.
Tại phía Đông, Đức giành hết mọi nỗ lực cuối cùng để phòng thủ thủ đô. Việc này cũng bị thất bại và lực lượng Liên Xô chiếm đóng Berlin vào cuối tháng 4 năm 1945. Sau khi Berlin sụp đổ và Hitler tự tử, Đức chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ tại châu Âu từ mũi bắc Na Uy cho đến phần trên của Ý. Ngày 8/5/1945, các lực lượng Đức đầu hàng vô điều kiện.
Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương
Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương khác với chiến trường châu Âu rất nhiều. Chiến trường này hầu hết được đánh tại các đảo Nhật Bản đã chiếm đóng trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á cho nên hải chiến và các trận đánh gần biển xảy ra nhiều lần hơn các trận đánh trên đất liền như ở châu Âu.
Quá trình bành trướng của Nhật Bản
Chiến tranh Trung-Nhật đã đang tiếp diễn tại Đông Á khi Đệ nhị thế chiến bắt đầu tại châu Âu, cho nên một vài sử gia cho rằng ngày Nhật xâm lăng Trung Quốc (ngày 7/7/1937) là ngày bắt đầu chiến tranh tại chiến trường Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu tính là một phần của Đệ nhị thế chiến, thì ngày 7/12/1941 thường được nhắc đến như là ngày bắt đầu, khi Nhật tuyên chiến với Mỹ và các nước Đồng Minh bằng cách tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), Phillipines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Á và Tây Thái Bình Dương.
Nhật hành động nhanh chóng để chiếm các đảo ở Thái Bình Dương có giá trị phòng thủ nhằm làm cạn ý chí chiến đấu của Mỹ. Tại Trung Quốc và Đông Nam Á, Nhật tiếp tục bành trướng các khu vực được nó cai quản nhằm kịp khai thác tài nguyên để sử dụng.
Sáu tháng sau khi giao chiến, các hạm đội Nhật và Mỹ đánh nhau giữa Thái Bình Dương. Sau Trận chiến Midway, nòng cốt hạm đội tàu sân bay của Nhật đã bị tàn phá, và quân Nhật không tiến được nữa trên Thái Bình Dương. Nhật tiếp tục tìm cách trả đũa, nhưng quân Mỹ dùng biện pháp đánh theo vòng ngoài của Nhật, cùng lúc nhảy từ đảo này qua đảo nọ để đẩy Nhật phải lui lại.
Nhật Bản thua cuộc
Khi Nhật bành trướng, họ để lại nhiều tiền đồn phòng thủ tại mỗi hòn đảo họ kiểm soát trên Thái Bình Dương. Kế hoạch của Mỹ để đối phó với các đảo này là chiếm những đảo cốt yếu cho việc tiến đến Nhật, trong khi làm giữ vững các đảo khác không bị chiếm. Hải quân lục chiến Mỹ phải đánh nhiều trận đấu đẫm máu trên những hòn đảo này để chiếm giữ những đảo và sân bay mà quân đội có thể tiến tới.
Tại phía nam của cuộc bành trướng của quân đội Nhận Bản, trên đảo New Guinea, Nhật đã bị quân Australia chặn lại, không chiếm giữ nổi toàn bộ đảo. Hai lực lượng này đánh nhau trong các khu rừng trong những hoàn cảnh khốc liệt để giành giật đảo này. Trong khi New Guinea không quan trọng lắm, nhưng quân Australia sợ sau khi Nhật chiếm giữ đảo này, họ sẽ bị đe dọa.
Tại Đông Nam Á, Nhật đã tiến nhanh trong các thuộc địa của Anh cho đến khi bị kháng cự mãnh liệt tại Myanmar. Quân Anh, trong đó có nhiều đơn vị người Ấn Độ, đã đuổi lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal và vì thế Nhật không đe dọa được Ấn Độ và các đường tiếp tế cần thiết cho quân Trung Quốc đang đánh các lực lượng Nhật tại đó.
Đến gần cuối chiến tranh, Mỹ chiếm được các căn cứ gần Nhật và bắt đầu ném bom vào các đảo nước này. Tuy không mạnh mẽ như tại Đức, việc ném bom rất có hiệu quả tại vì nhà cửa ở Nhật dễ sập hơn và người Nhật ít chuẩn bị trước hơn với mối đe dọa này. Thêm vào đó, việc mất các thuộc địa và quan trọng hơn là việc mất hàng hải đã làm tê liệt khả năng thu thập tài nguyên cần thiết. Vì thế, ngành công nghiệp Nhật không thể sản xuất bằng mức mà Đức có thể duy trì được vào lúc chiến tranh sắp chấm dứt.
Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật và nhanh chóng đánh bại tập đoàn quân Quan Đông của Nhật đang đóng ở Mãn Châu, Trung Quốc. Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật, nhưng sự phát triển bom nguyên tử tại Mỹ đã thay đổi kế hoạch. Hai quả bom này đã được thả xuống hai thành phố Nagasaki và Hiroshima tại Nhật.
Thấy rõ không thể thắng được, quân Nhật đã phải đầu hàng quân Đồng Minh vào ngày 2/9/1945 - sáu năm và một ngày sau khi Đức xâm lược vào Ba Lan. Tuy nhiên hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây, những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu.
Chiến trường Địa Trung Hải
Trong khi Đức đang tập trung lực lượng đánh Anh thì Ý mở cuộc tấn công Hy Lạp Ngày 28 tháng 10 năm 1940. Cuộc xâm lược này hoàn toàn thất bại: Hy Lạp chẳng những đánh đuổi Ý đến Anbani, mà còn tham chiến theo phía Đồng Minh (trước đó Hy Lạp trung lập), cho phép Anh đổ bộ tại nước này để viện trợ và phòng thủ. Trong khi Ý đang đương đầu với Hy Lạp, nước Nam Tư láng giềng bị một cuộc đảo chính ngày 27/3/1941, đồng thời trục xuất chính quyền đã ký Hiệp ước Ba Bên chỉ ba ngày trước.
Trong khi bị bất phân thắng bại với Anh trên bầu trời đảo này, Đức cho một số quân đi để làm ổn định khu Balkan. Kế hoạch được đặt ra, và Đức mở cuộc tấn công cả hai nước Nam Tư và Hy Lạp Ngày 6 tháng 4, quét sạnh và chiếm giữ khu vực này sau trận đánh tại Crete.
Chiến dịch Bắc Phi
Tháng 8 năm 1940, với lực lượng lớn của Pháp tại Bắc Phi chính thức trung lập trong cuộc chiến, Ý mở một cuộc tấn công vào thuộc địa Somali của Anh tại Đông Phi. Tháng 9 xâm lược vào Ai Cập (cũng đang dưới sự kiểm soát của Anh). Cả hai cuộc xâm lược này đều thất bại sau khi lực lượng Anh đuổi Ý ra khỏi cả hai khu vực và chiếm được nhiều thuộc địa Ý, trong đó có Đông Phi của Ý và Lybia.
Với sự thất bại của Ý, và thấy phe Trục có nguy cơ bị đuổi khỏi toàn bộ Phi Châu, Đức gửi một số đơn vị của Deutsches Afrikakorps dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đến Lybia để tăng viện cho đồng minh của mình Tháng 2 năm 1941. Đơn vị này, cùng với quân Ý, đã đánh một trận đánh ác liệt ven bờ biển Cyrenaica với lực lượng Anh vào năm 1941 và 1942. Cùng với trận chiến này, Hải quân hoàng gia Anh và Regia Maria của Ý cũng đánh nhau để giành tuyến đường tiếp tế trên Địa Trung Hải, điển hình là trận đấu tại căn cứ quan trọng tại Malta.
Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng Regia Maria khiến phía Đồng Minh thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh đẩy mạnh sau Trận chiến El Alamein, chiếm gần hết toàn bộ Lybia và đuổi quân Trục vào Tunisia. Tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Mỹ thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Marocco, bao vây các lực lượng phe Trục. Cho đến tháng 5 năm 1943, toàn bộ các lực lượng phe Trục tại Bắc Phi đã bị đánh bại sau Chiến dịch Tunisia.
Trong lúc đó, tại Trung Đông, lực lượng Đồng Minh tấn công vào Syria và Lebanon, hai khu vực đang dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng như Iraq, nơi chính quyền có thiện cảm với Đức. Việc này giúp lực lượng Đồng Minh củng cố quyền lực trong khu vực này.
Chiến dịch Ý
Với khu Bắc Phi được củng cố, các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ vào đảo Sicily trong năm 1943, bắt đầu một cuộc tấn công vào phần "bụng mềm phía dưới của châu Âu". Cuộc tấn công vào Sicily thành công, khiến chính quyền của Mussolini sụp đổ và chính phủ mới của Ý ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Các lực lượng Đức can thiệp để quân Đồng Minh không giành được toàn bộ Ý. Sau cuộc đổ bộ tại Salerno, tiến trình hành quân của Đồng Minh bị chậm lại bởi địa thế khó khăn đang được quân Đức có kinh nghiệm hơn chống giữ.
|
Các giai đoạn chính của Đệ nhị thế chiến (1939-1945) |
|
Từ 1939 đến 1945, Đệ nhị thế chiến đại để đã trải qua 5 giai đoạn: |
(NHQ - Theo Wikemedia, LSTG-NXBGD)