Đệ nhị thế chiến - Hoàn cảnh và nguyên nhân
Đệ nhị thế chiến là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. Không cuộc xung đột nào trước đó hay sau đó bao gồm số nước tham gia nhiều hơn, ảnh hưởng diện tích đất lớn hơn, hay giết nhiều mạng nguời và phá hoại nhiều hơn.
|
| Đệ nhị thế chiến là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. |
Vài nét chính
Đệ nhị thế chiến, còn được gọi là Chiến tranh thế giới lần thứ hai hay Đại chiến thế giới lần thứ nhì, là một cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng Minh và Trục. Tất cả mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ Nam cực. Nó là cuộc chiến rộng lớn và tai hại nhất trong lịch sử nhân loại.
Chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến: một số người cho rằng đó là ngày Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 1/9/1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7/7/1937, còn một số khác thì tính vào một ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai thế chiến chỉ là một cuộc chiến được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.
Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Âu, bắc Phi Châu, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương và phần lớn của Đông Á và Đông Nam Á. Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8/5/1945 nhưng vẫn còn tiếp diễn tại châu Á cho đến khi Nhật đầu hàng vào ngày 2/9/1945.
Khoảng 54 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này, kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc Xã (Holocaust). Là một chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị đánh bom hàng loạt. Vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực, và ra-đa v.v là một số phát minh trong cuộc chiến.
Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai phái: một phía chịu ảnh hưởng phương Tây do Mỹ đứng đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước chịu sự ảnh hưởng của Mỹ được phục hồi kinh tế sau khi nhận được viện trợ từ Kế hoạch Marshall trong khi các nước khác trở thành các nước cộng sản đứng về phía Liên Xô.
Tây Âu liên kết đồng minh trong Khối Bắc Đại Tây Dương (NATO), trong khi các nước Đông Âu liên kết đồng minh theo Hiệp ước Warsaw. Các liên minh này đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh lạnh sau này. Tại châu Á, sự chiếm đóng Nhật Bản của quân đội Mỹ đã làm thay đổi nhiều mặt đời sống nước này, trong khi Trung Hoa Dân Quốc trước đây đã thành Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và vùng lãnh thổ Đài Loan.
|
Các giai đoạn chính của Đệ nhị thế chiến (1939-1945) |
|
Từ 1939 đến 1945, Đệ nhị thế chiến đại để đã trải qua 5 giai đoạn: |
Tình hình thế giới dẫn đến Đệ nhị thế chiến
Châu ÂuVào thập niên 1920 và 1930, chế độ phát xít giành được quyền lực tại Ý và Đức trong khi các đảng phát xít khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường Trung Âu. Riêng tại Đức, đảng Quốc xã và Adolf Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính quyền kiểu mẫu. Đức quốc xã khuyến khích và khai thác niềm tự hào dân tộc của người Đức, cũng như các nền tảng trụ cột của chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân thủ chính quyền.
Các sự kiện này khiến Đức trở thành một nước hùng mạnh với quân đội mạnh được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công nghiệp phát triển nhanh trong môi trường khuyến khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng trong việc giành lại đất đai đã bị mất sau Đệ nhất thế chiến và danh dự quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít thành công hơn.
Hitler lên nắm chính quyền, đặt ưu tiên vào việc tái tạo quân đội. Đức bỏ tiền ra để nghiên cứu các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp quân sự. Các thoả thuận với Liên Xô cho phép Đức huấn luyện các đơn vị lính trong bí mật, trái phép với Hiệp ước Versailles. Vào năm 1936, Hitler tái chiếm đóng Rhineland và vào năm 1938, Đức Quốc Xã sát nhập nước Áo.
Sau khi Áo sát nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng Sudentenland từ Tiệp Khắc. Hai nước Anh và Pháp không muốn tham chiến cho nên đã vứt bỏ liên minh quân sự với Cộng Hoà Tiệp Khắc và ký Thoả thuận Munich vào ngày 29/ 9 để nhân nhượng Đức. Đến ngày 16/3/1939, Đức đã chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc. Ý theo gương Đức và sát nhập Anbani vào ngày 12/4.
Vào ngày 22/5, Ý và Đức ký Hiệp ước Thép, chính thức liên minh quân sự giữa hai nước. Vào ngày 23/8, Đức và Liên Xô ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia sẻ Đông Âu giữa hai nước này. Thoả thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên, nếu nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau trong Nội chiến Tây Ban Nha vừa mới kết thúc.
Châu Á
Tại châu Á, Nhật Bản đã có mặt tại Trung Quốc khi chiến tranh bắt đầu. Các khu vực bị Nhật chiếm đóng trong quốc gia suy yếu này ngày càng nhiều trong những năm cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi hai phía quốc dân đảng và cộng sản đảng giảm đấu tranh với nhau để tập trung vào việc đánh đuổi Nhật Bản ra khỏi Trung Quốc.
Lúc đầu, Trung Quốc giành được một số thắng lợi, nhưng sau này chiều hướng quay sang phía Nhật và họ đã chiếm đóng hầu hết miền tây Trung Quốc. Trong cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường bị tàn sát tàn nhẫn, trong đó có sự kiện Tàn sát Nam Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực để Nhật rời khỏi Trung Quốc. Hoa Kỳ, trong khi biệt lập đối với châu Âu, đã bày tỏ sự quan tâm đối với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện pháp trừng phạt như không cho hàng hóa được tàu chở đến Nhật, nhất là dầu mỏ.
Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và công nghiệp tại Trung Quốc trước khi Đệ nhị thế chiến bắt đầu. Tuy thế, Trung Quốc không chứa đựng hai tài nguyên quan trọng trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó là dầu mỏ và cao su. Có hai quan điểm trong các tướng lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên này: một là đánh vào phía bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm lấy một phần lớn của Siberia và hai là đánh xuống phía nam vào các thuộc địa của châu Âu tại Đông Nam Á. Sau Chiến tranh ranh giới Xô-Nhật, nhiều người nghĩ rằng Nhật đã cho rằng cách đánh vào phía bắc không thể đạt được.
Lý do
Các lý do cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hiệp ước Versailles, Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa dân tộc, và chủ nghĩa quân phiệt.
Lý do dẫn đến Đệ nhị thế chiến khác nhau trong mỗi nơi giao chiến. Tại châu Âu, lý do nằm xung quanh hậu quả của Đệ nhất thế chiến: Đức muốn tránh phải tuân theo các điều kiện trong Hiệp ước Versailles, chủ nghĩa phát xít ngày càng phổ biến và các lãnh tụ chủ nghĩa này có tham vọng cao, trong khi tình hình không ổn định tại Trung Âu và Đông Âu sau khi Đế quốc Áo-Hungary tan rã làm chiến tranh dễ xảy ra.
Tại Thái Bình Dương, ý định biến thành cường quốc của Nhật Bản và sự thắng thế của một số thủ lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ chiếm Trung Quốc và các nước lân cận để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà nước đảo nhỏ bé này không tự đáp ứng được, cuối cùng đã cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.
Tuy nhiên, qua diễn biến của quan hệ quốc tế từ 1929 – 1939, có thể thấy:
- Nguyên nhân sâu xa hay là nguồn gốc của Đệ nhị thế chiến là tác động của quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị giữa các nước tự bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Sự phát triển không đều đó đã làm cho lực lượng so sánh trong thế giới tư bản thay đổi căn bản, làm cho việc tổ chức và phân chia thế giới theo hệ thống Versailles-Washington do kết quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất không còn phù hợp nữa. Điều đó nhất định phải dẫn đến một cuộc chiến tranh mới giữa các nước đế quốc để phân chia lại thế giới.
- Nguyên nhân trực tiếp của Đệ nhị thế chiến là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1939 làm những mâu thuẫn trên thêm sâu sắc, dẫn tới việc lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít ở một số nước với ý đồ gây chiến tranh để phân chia lại thế giới.
- Thủ phạm gây chiến là phát xít Đức, quân phiệt Nhật Bản và phát xít Italia. Nhưng các cường quốc phương Tây, do chính sách hai mặt của họ, đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây ra cuộc Đệ nhị thế chiến tàn sát nhân loại.
(NHQ - Theo Wikemedia, LSTG-NXBGD)