Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc đào tạo nhân tài
Nhân tài, hiền tài - là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì nhân tài, hiền tài nhiều. Nguyên khí suy thì nhân tài hiếm, hiền tài càng không có. Vào các thời mạt vận của các triều đại phong kiến xưa, có lúc có tình trạng: “Nhân tài như lá mùa thu. Tuấn kiệt như sao buổi sớm” tức là rất hiếm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Hội nghị giáo viên toàn miền Bắc tại Thủ đô Hà Nội. 1958. |
Đất nước ta, dưới thời thực dân phong kiến cũng vậy, nhiều tài năng bị thui chột, nhân tài do đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Còn hiền tài thì chỉ được hun đúc trong gian khổ hy sinh của cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, biết bao thanh, thiếu niên thông minh, hiếu học đã phải hiến thân cho Tổ quốc khi chưa được đào tạo để trở thành nhân tài.
Ngày nay, đất nước được độc lập tự do, nhân dân có quyền làm chủ, nhân tài có điều kiện nở rộ, nếu được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng.
Toàn Đảng, toàn dân ta đang chăm lo đào tạo nhân tài. Các ngành tư tưởng, văn hóa, giáo dục, khoa học... đều dốc sức vào việc đào tạo nhân tài. Các đoàn thể quần chúng, các hội văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, các địa phương từ làng, xã đến huyện, tỉnh, thậm chí đến các gia đình, dòng họ đều chăm lo đào tạo và phát triển nhân tài.
Thực tiễn đất nước cũng cho thấy một xu thế tất yếu đang diễn ra là sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đòi hỏi phải có nhiều nhân tài để thực hiện. Ngược lại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa lại là điều kiện để sản sinh ra nhiều nhân tài. Từ đông đảo các nhân tài sẽ xuất hiện những hiền tài.
Thành phố Cần Thơ vinh dự được Đảng và Chính phủ quy hoạch là một trong 5 thành phố lớn trực thuộc Trung ương. Thành phố Cần Thơ được mở rộng. Các khu đô thị mới vành đai thành phố đang phát triển mạnh mẽ. Cảng Cần Thơ, Sân bay Trà Nóc đang vươn lên đạt tầm cỡ khu vực, quốc gia và quốc tế.
Vinh dự và thuận lợi trên càng khiến lãnh đạo và nhân dân Cần Thơ năng động về mọi mặt để đáp lại lòng mong muốn của nhân dân, của đất nước.
Yêu cầu bức xúc trước mắt đối với chúng ta là đi đôi với đô thị hóa phải phát huy sức mạnh của nguồn nhân lực dồi dào đang độ tuổi lao động mà một số đang bị thất nghiệp, để đào tạo nhân tài mọi mặt khiến cho thành phố Cần Thơ không bị tụt hậu so với cả nước, sao cho “đô thị không bị nông thôn hóa trở lại” như hồi quan liêu bao cấp. Muốn vậy, ngoài kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế- xã hội, nhiệm vụ huy động nhân lực, đào tạo nhân tài đang có tầm quan trọng hàng đầu.
Xuân Bính Tuất chúng ta cùng nhau suy nghĩ về nhiệm vụ này để đào tạo nhân lực cho địa phương và góp phần đào tạo nhân tài cho cả nước. So với ông cha ta xưa, nhiệm vụ này ngày nay có nhiều thuận lợi:
- Một là: Nguồn lực để đào tạo nhân tài không bó hẹp ở một giai cấp, tầng lớp nào mà là từ toàn dân.
Nhân tài ở xã hội phong kiến, thực dân nửa phong kiến thường xuất thân từ các gia đình khoa bảng, quan lại phong kiến hay tư sản, địa chủ. Cá biệt có người xuất thân từ nông dân lao động, dân nghèo thành thị, nhưng khi thành đạt rồi cũng cố gắng gia nhập vào hàng ngũ quan lại để có được nhiều con cháu lại trở thành nhân tài qua con đường khoa bảng.Vì vậy cả nước chủ yếu cũng chỉ có mấy chục dòng họ, gia đình sản sinh ra nhiều nhân tài.
Sau Cách mạng Tháng Tám, cùng với việc thu hút, trọng dụng các nhân tài trong nước hay từ ngoài nước về mà Hồ Chủ tịch đã thực hiện, Đảng đã chú trọng đào tạo nhân tài từ công nông mà hiệu quả đến nay vẫn còn được phát huy. Nhiều con em các anh hùng liệt sĩ, con em các cán bộ, thanh niên miền Nam ra tập kết... được nhà nước đào tạo, hiện đang cống hiến đắc lực trên mọi ngành, mọi miền của Tổ quốc.
Mỏ dầu Bạch Hổ trên biển Đông. Ảnh: TL (Nguồn: “Chính phủ Việt Nam 1945 - 1998”- NXB CTQG H. 1999 tr. 178) |
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, đa số công nông đã trở thành trí thức, các gia đình trí thức có nguồn gốc từ phong kiến, tư sản đã hòa cùng nhân dân lao động thành một khối nên nguồn nhân lực để đào tạo nhân tài có thể lấy từ toàn dân, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, địa phương, khu vực, thành thị, nông thôn, trong nước hay Việt kiều ở nước ngoài. Ngay trong việc chi kinh phí cho hàng trăm sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh ra học nước ngoài, Đảng và Nhà nước cũng lựa chọn về đức và tài là chính, lý lịch chỉ là để tham khảo.
- Hai là: Ngày nay, nhân tài không chỉ được đào tạo về chính trị, quân sự, văn học nghệ thuật, mà còn được đào tạo trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Xưa kia, nhân tài thời phong kiến ở Việt Nam thường xuất hiện trong các ngành tư tưởng văn hóa, quân sự, chính trị. Hiếm có nhân tài về kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Về thể dục thì chỉ gắn với dưỡng sinh mà nhân tài là những nhà y học cổ truyền nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Lãn Ông, Hoàng Đôn Hòa, Đào Công Chính... Thể thao thì gắn với võ thuật sản sinh ra được một số nhà quân sự đại tài như Lê Phụng Hiểu (ném đao xa mấy dặm để có “Thác đao điền”) Nguyễn Chế Nghĩa (bắn tên không phát nào không trúng hồng tâm), Mạc Đăng Dung (dùng gươm sắt nặng hàng chục cân (hiện được lưu giữ tại Dương Kinh nhà Mạc, cân lại được hơn 25 ki-lô mà chúng ta chỉ vác chứ không múa được như họ Mạc), Trạng cờ có Vũ Huyến. Trạng vật có Vũ Phong. Ở miền Nam có mấy dòng võ thuật tu luyện cốt để “bảo thân, độ thế “, sản sinh ra nhân tài quân sự như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực... tự rèn võ nghệ để đấu tranh chống Pháp.
Ngày nay, thời đại mới đang yêu cầu ngành nào cũng có nhân tài. Nhân tài xuất hiện đông đảo trong: thể dục thể thao, tiểu thủ công nghiệp, nghệ sĩ chuyên nghiệp, nghiệp dư; báo chí, thông tin tuyên truyền, chủ trang trại, doanh nhân công, thương, du lịch dịch vụ... Các nhà lãnh đạo quản lý có đức có tài trong Đảng, ngoài Đảng đều được coi là những nhân tài, được Đảng và Nhà nước quan tâm đào tạo, bồi dưỡng.
- Thứ ba: Nhiệm vụ đào tạo nhân tài là do nhà nước và nhân dân cùng làm.
Đây có thể được coi là một truyền thống của dân tộc ta. Xưa kia, nhà nước coi trọng đào tạo nhân tài qua khoa cử, nhưng không bỏ qua việc thu nhận nhân tài từ đại chúng qua tuyển cử và cầu hiền. Ngược lại do có lòng yêu nước, thương dân mà có những nhân tài tự rèn luyện mà thành đạt. Về quân sự như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu; về văn học như Đoàn Nhữ Hài (nhờ tài văn chương, không qua khoa cử mà được tuyển dụng), Phan Huy Chú (chỉ đỗ tú tài thôi mà trở thành nhà bác học). Ở miền Nam, Nguyễn Hữu Huân, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Trường Toản thành tài không phải từ học vị tiến sĩ, trạng nguyên...
Ngày nay, truyền thống này được tích cực phát huy, với tinh thần ham học, ham làm, với các phong trào khuyến học khuyến tài, tự học, tự rèn, tự do sáng tạo. Có nhà kiến trúc không qua đào tạo mà chuyển dịch được hàng chục ngôi nhà cao to không phải tháo gỡ để xây lại. Có nông dân tự chế ra máy tuốt lúa, tách ngô được thị trường ưa chuộng... Đặc biệt là phụ nữ, xưa kia chỉ dành tài năng cho việc chiều chồng nuôi con, chăm lo bếp núc, nên về khoa bảng duy nhất chỉ có Nguyễn Thị Duệ cải trang nam giới mới được đi thi đậu tiến sĩ dưới thời nhà Mạc. Còn như Trịnh Thị Ngọc Trúc (Từ điển học) Đoàn Thị Điểm, bà huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương... đều không có bằng cấp mà vẫn trở thành các thi sĩ tài danh. Nay số phụ nữ có học vị tiến sĩ, có học hàm giáo sư, phó giáo sư, nhận các giải thưởng quốc gia, quốc tế là không hiếm. Nhiều nữ đồng chí xuất thân từ công, nông, trí thức đang giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
- Thứ tư: Nhân tài được đào tạo không chỉ do nội lực mà còn tìm được sự hỗ trợ của ngoại lực
Xưa kia, nhân tài thời phong kiến chỉ có trình độ quốc gia, chưa có trình độ quốc tế. Mấy vị lưỡng quốc trạng nguyên như Mạc Đĩnh Chi... cũng chỉ được thừa nhận trong phạm vi hai quốc gia Việt -Trung. Còn ngày nay, nhân tài đã mang tầm vóc quốc tế do hiện đại hóa và toàn cầu hóa mang lại. Trong thế kỷ trước, chúng ta hàm ơn các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã giúp đỡ đào tạo được nhiều nhân tài, một số đó không ít có trình độ quốc tế. Số nhân tài như Trần Đại Nghĩa,Tạ Quang Bửu, Trần Đức Thảo... được đào tạo ở Pháp; Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của... được đào tạo từ Nhật... cũng theo lời kêu gọi của Bác về phục vụ đắc lực cho Tổ quốc. Nay thì chân trời rộng mở, thanh niên ta có thể đi đào tạo trên khắp năm châu bốn biển. Không chỉ Nhà nước xuất kinh phí mà một số tỉnh, thành như thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng cũng tự xuất kinh phí cho đào tạo nhân tài. Trong thế kỷ trước, du học nước ngoài được đặt trong kế hoạch nhà nước, nay thì có thể: nhà nhà du học, người người du học - miễn sao có nhân tài của gia đình, dòng họ và cho đất nước. Sự nghiệp đào tạo nhân tài đang được thực thi theo tinh thần: “Tất cả là do dân, của dân, vì dân” như Đảng và Hồ Chủ tịch đã nói
Vấn đề chỉ còn là ở chỗ làm sao cho người học tập thành tài sớm, chầy rồi cũng về phục vụ Tổ quốc, cũng như Nhà nước chăm lo bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài như thế nào để tài năng không bị bỏ phí, chất xám không bị thất thoát ra ngoài.
Về phía lãnh đạo, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa IX, đã nêu rõ cần: “Có cơ chế cụ thể phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; mở rộng dân chủ, khuyến khích sáng tạo, phát minh, sáng kiến và bảo vệ sở hữu trí tuệ... Có chính sách động viên các nhà khoa học, kể cả những người đã nghỉ hưu và những người đang sinh sống ở nước ngoài tham gia các chương trình kinh tế - xã hội của quốc gia và xây dựng đường lối, chính sách pháp luật...”. Còn về phía những người được nhà nước hay địa phương, dòng họ, gia đình cho đi đào tạo thì trách nhiệm cá nhân là rất lớn.
Thực tế vừa qua cho thấy hầu hết những người được đưa đi đào tạo ở nước ngoài đều noi gương Bác Hồ, với tinh thần yêu nước thương nòi, đã gian khổ học tập để thành tài trở về phục vụ đất nước. Trong lúc bôn ba cứu nước, Bác Hồ đã cho chúng ta một tấm gương tuyệt đỉnh về việc tự học tập, rèn luyện để trở thành hiền tài. Thời kháng chiến chống Pháp, Bác đã khuyên các ngành các giới cần làm thế nào để có nhiều nhân tài:
“ Sĩ: Học trò phải chăm học và phải học quân sự; nhà chuyên môn phải phát minh và sáng chế để giúp cho bộ đội đánh giặc và cải thiện đời sống cho nhân dân.Văn nghệ sĩ sáng tác để động viên tinh thần dân tộc và để tuyên truyền kháng chiến ra nước ngoài. Các viên chức triệt để thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Làm việc với tinh thần chiến sĩ, với phương pháp khoa học và với lề lối dân chủ...
Nông: Trồng nhiều lúa, nhiều màu, nhiều bông để quân và dân đủ ăn, đủ mặc, đủ dùng...
Công: Chế nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và để cung cấp cho nhân dân. Hợp tác với chuyên môn để cải tiến kỹ thuật và điều kiện sản xuất...
Thương: Mở mang việc buôn bán, giúp vào việc tiếp tế... giữ vững giá tiền Việt Nam.
Toàn dân: Đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi... Ra sức thi đua ái quốc về mọi mặt...” (1) Nhân tài trong kháng chiến chống Pháp đã nở rộ trong thi đua ái quốc theo lời kêu gọi của Bác. Ngày nay trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ thì mới hơn, cao hơn, nhưng với tinh thần thi đua như Bác dạy, cũng sẽ có nhiều nhân tài nảy nở.
Lãnh đạo và nhân dân Cần Thơ đã nắm bắt được thời cơ thuận lợi kể trên để đẩy mạnh nhiệm vụ đào tạo nhân tài. Ủy ban nhân dân TP Cần Thơ không chỉ có kế hoạch đào tạo mà còn đề ra chính sách thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài. Nhiều nhà nông học nổi tiếng trong nước đã tụ hội về Đại học Cần Thơ để cống hiến, mặc dầu chúng ta còn phải “chiêu hiền, đãi sĩ “ hơn nữa.
Có nhiều nhân tài trên mọi ngành chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học, văn hóa xã hội... chúng ta mới thu hút được nhiều nhân lực dôi dư từ nông nghiệp mà một số đang bị thất nghiệp.
Trên cơ sở có nhiều nhân tài chúng ta mới chọn lựa, xây dựng, vun đắp nên những “Hiền tài”. Chữ “Hiền” bao hàm cả “Đức” và “Tài”. Tài năng thì đặc biệt là tài “kinh bang, tế thế”. “Đức” thì trung kiên, dũng cảm, chí công vô tư, tiêu biểu như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm dám can ngăn vua khi vua có sai lầm và đòi chém lũ quyền thần tham ô sa đọa. Không đạt được thì xin cáo quan về quê dạy học. Hay như Trần Quốc Tuấn dám lấy cái đầu mình ra cam đoan là nhất định giữ được nước mà nói: “Nếu bệ hạ muốn hàng trước hết xin hãy chém đầu thần đi đã”...
Ông cha ta xưa thường nêu gương các bậc “Hiền nhân quân tử”, coi trọng các nhà “Hiền triết”, như suy tôn Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An là “Vạn thê’ sư biểu”, tức là “Thày học của muôn đời”. Chính vì vậy mà các vua chúa anh minh xưa mới có chính sách “Chiêu hiền, đãi sĩ”. Trong kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ cũng từng nêu yêu cầu: tìm ra “những bậc hiền năng để chính phủ tuyển lựa và trọng dụng”. Hiền tài, Hiền nhân, Hiền năng... đều là chỉ cả tài và đức. Tài là “kinh bang tế thế”, “Cứu dân cứu nước”. Đức là “cần kiệm liêm chính chí công vô tư”, như Bác Hồ thường nhấn mạnh. Kẻ tham nhũng, lòng “chứa đầy chất tham... thì còn đâu nữa mà chứa được chữ “Hiền".
Trước Đại hội IX của Đảng tôi đã có một kiến nghị lên Trung ương Đảng là: “Toàn Đảng toàn dân ta cần chăm lo đào tạo, vun đắp nên những hiền tài để từ đó xuất hiện ra “Lãnh tụ ở bước ngoặt lịch sử đầu thế kỷ XXI”, như Bác Hồ đã xuất hiện đầu thế kỷ XX”. Đó cũng là lấy nguyên tắc đào tạo ra được nhiều nhân tài để trên cơ sở đó vun đắp được “Hiền tài”. Từ hiền tài mà có được lãnh tụ ở bước ngoặt lịch sử dựng nước và giữ nước trong điều kiện thiên niên kỷ “công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa” đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy hiểm họa này.
-
GS Văn Tạo (Cần Thơ Xuân 2006)