Chuông vọng xót xa từ làng đồng Đại Bái !
08:59' 01/05/2003 (GMT+7)
Những chủ nhân tương lai của Làng đồng Đại Bái
  • Phóng sự của Tùng Duy

(VietNamNet) - Những nghệ nhân xuất sắc của làng đồng Đại Bái nổi tiếng chỉ còn vài người. Trụ lại nghề đồng được cha ông truyền lại sao "khó như đi lên giời!". Đã thế, nhịp sống hiện đại nay tràn về làng khiến địa danh vốn giàu truyền thống văn hoá này còn phải gồng sức rất lâu, phải bơi những sải rất dài để thoát chìm giữa bể chuyện xã hội nhức nhối, bức xúc...

Ngàn năm, nét xưa còn lại chút này...!

Làm quan Đô úy triều Lý, Nguyễn Công Truyền (sinh năm 989 tại làng Đại Bái, Gia Bình, Bắc Ninh) được phong là Điện Tiền Tướng Quân. Sau khi phụ thân mất, cụ Truyền từ quan về làng dạy dân nghề gò, đúc đồng - cái nghề quý mang hưng thịnh và danh tiếng cho làng Đại Bái suốt gần 1.000 năm qua. Ngày cụ tạ thế (29/9 năm Canh Tý 1060) đã là ngày cả làng dâng hương lễ Cụ tổ làng đồng hàng năm. Người Đại Bái tự hào có nghề quý kết tinh trong bàn tay "đồng vàng" mà người vùng khác muốn học theo không được. Làng Đại Bái tự hào có một cái Tết riêng là ngày giỗ Cụ tổ, cả làng ăn uống linh đình hơn cả Tết Nguyên đán, cháu con xa lắc muôn nơi vẫn tìm về góp giỗ.

Trong số 1.500 hộ ở Đại Bái với gần 6.000 nhân khẩu ngày nay có non nửa số hộ còn đeo đuổi một phần nghề đồng. Ngót một thiên niên kỷ đi qua, người làng Đại Bái không chỉ tài tình luyện đúc những nồi đồng, trống đồng nổi tiếng mà từ cái thời xa xưa cụ kỵ ấy, cụ Truyền đã chia Đại Bái ra bốn xóm truyền thống làm nghề đồng mang nét riêng: xóm Giữa làm siêu; xóm Ngoài làm nồi; xóm Xôn làm thau; xóm Tây làm mâm, chiêng, kèn, trống. Trong kháng chiến chống Pháp, dân Đại Bái phải di tản tứ xứ vẫn mang theo nghề đồng lập kế làm giầu. Từ Nam chí Bắc, dấu son khắc tên làng trên mỗi đồ đồng tỏa sáng khắp nơi. Khách thập phương sau này vì kính nể chất lượng "độc nhất vô nhị" mà quyết một lần tìm đến thăm làng đồng.

Cuối năm 2000, một triệu phú người Pháp (cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam) quyết trở lại đất Việt để đến làng Đại Bái tìm nghệ nhân tài hoa nào đó làm ra chiếc nhẫn bạc có con rồng được khắc tinh xảo mà ông này mua ở Bắc Ninh năm 1952. Chỉ có người làng Đại Bái mới làm được chiếc nhẫn có con rồng ấy. Bao người Pháp hỏi mua lại chiếc nhẫn của nhà triệu phú với giá hàng chục ngàn đô la nhưng ông không bán. Và cuối cùng ông này cũng tìm được tác giả của "độc" nọ là nghệ nhân tên Phấn (nay đã mất). Con trai cụ Phấn (ông Lâm 68 tuổi, nay sống ở Hà Nội) cũng là "siêu nghệ nhân" đồ mỹ nghệ Đại Bái. Ông từng mang dụng cụ đồ nghề đi dự hội thảo Quốc tế về nghệ nhân ở Nhật, Thái, Pháp... Không dưới vài lần, bàn tay được "phù phép" của ông thoắt lẹ biểu diễn trực tiếp những đường chạm tạo hình con rồng vàng trên chiếc đỉnh đồng trước bao con mắt quan khách khiến các nghệ nhân bè bạn quốc tế phải trầm trồ khâm phục tinh hoa của người Việt.

Nhưng, cái nguy cơ Đại Bái mất đi mấy nghệ nhân tài hoa (còn 3 người nay đã già: ông Lục, ông Đích, ông Uyển) đang đến từng ngày. Thời buổi đồ đồng gia dụng không được "ưu dụng" như xưa, khiến nhiều xưởng đồng trong làng phải "đổi món" quay sang làm đồ thờ (đỉnh, chuông, lư, hạc...) nhưng đâu dễ bán của này. Lớp thanh niên trẻ dù muốn cũng khó theo học nghề. Nhiều hộ, nhiều người bỏ nghề đồng mà đi làm thuê (phụ xây, gánh đất, đến làng nghề khác...) cho sinh nhai qua buổi. Cái khối óc và bàn tay của họ buộc phải nói lời chia xa bao tiếc nuối cái nghề quý được cha ông để lại, tôi không chắc họ phải tạm biệt hay vĩnh biệt cái nghề đồng tinh tuý này khi mà đoàn người đi bán sức vẫn kéo dài dài mỗi sáng ra khỏi làng Đại Bái...

Mấy chốc, hậu sinh phá một nét xưa...?

 Ao làng Đại Bái đang dần bị lấn chiếm

Q. (sinh 1975) là đứa con gái xinh đẹp được cưng chiều hết mực của lão U (một nghệ nhân giàu có trong làng) đâm hư từ độ tuổi dậy thì. Học chưa xong cấp 2, Q đã kẹp tiền của bố đi bụi theo đám con trai lêu lổng mất dạy. Lão U mải lo kiếm tiền, hối lại đã không kịp che cái hiệu nghệ nhân có một vết ố do con gái đổ đốn bôi vào. Hơn 3 năm, Q lang dạt ăn chơi chốn Hà thành để rồi vạ thân phải gã chồng nghiện ngập. Thằng chồng (chỉ kém bố vợ dăm tuổi) cũng đốn mạt ấy mang theo đứa con duy nhất của Q đi đâu mất. Q lại đi hoang, hút hít. Lão U cất công tìm được cái thân tàn dại của Q về nhốt chặt trên lầu hai căn nhà đẹp tựa biệt thự ở làng Đại Bái cả 6 tháng trời. Cho Q đi cai nghiện cũng bằng thừa bởi thân gái ấy không thuộc về Q nữa, nó là của ma tuý sai khiến. Q bị công an Gia Bình bắt quả tang khi trong túi quần nhét mấy chục "tép" mang bán cho trai làng.

Nhà tay thợ đúc tên Mười nọ lại khác. Một vợ ba con, đang chí thú làm ăn bằng nghề đồng đang buổi khốn khó bỗng họa ma tuý rước vào thân sau một lần "cà kê" với mấy thằng lơ xe. Mười khuân sạch đồ đồng trong nhà ném vào cơn mê thuốc. Đồ nghề cũng được Mười "đội nón mê" tiễn sạch. Nay còn gật gù trong trại cai của Bắc Ninh, chẳng biết anh ta nhớ vợ thương con phỏng có là muộn khi cái tuổi 40 đã chớm?

Bãi đất rộng mênh mang như sân vận động ở đầu làng Đại Bái dành để quy tụ làng nghề cứ bị bỏ hoang mãi. Sở CN hứa hoàn tất gọn "Khu CN Làng đồng" về đây mà thành hứa hão. Đêm đêm, đám nghiện ngập cứ tìm ra bãi đất mà "phê cho mát". Tên Tâm "gò" (thợ gò đồng được tiếng khéo tay) chán gò từ lâu, nay cả gan tổ chức mấy em "choai choai" chích choác ma túy. Một chiến sỹ công an huyện cho tôi hay, Tâm không phải kẻ cuối cùng rủ rê thanh niên làng ra bãi này "nằm mát" sau khi hắn bị tóm.

Có lẽ, trong mấy chục kẻ nghiện còn vật vờ, ẩn hiện lén lút sau luỹ tre làng Đại Bái, Nguyễn Văn Tiến (sinh 1974) là số ít thanh niên không tái nghiện sau đợt cai quyết liệt với sự trợ giúp của Công an huyện và người thân. Nghe tiếng búa nhíp Tiến gõ đều đều trên quai nồi đồng vàng choé trong xưởng nhà, tôi hiểu anh vui đến nhường nào sau khi cưới được cô vợ từng "bỏ của chạy người" hồi nhác thấy bóng anh "Tiến nghiện".

Ngón trộm cắp vặt ở Làng đồng này khiến người ta không thảng thốt la lên nữa bởi là "chuyện thường ngày ngoài ngõ". Lặt vặt thì mấy thanh phôi, đáng tiền hơn là cả trống đồng nhiều triệu, tất cả đều có cánh chực bay theo con nghiện ra ngõ!

Trò cờ bạc thì quanh năm rôm rả, nhất là dịp hè hội, giỗ lễ. Gã xe ôm đầu làng thấy tôi rộng tay dúi cho đôi chục ngàn trả công chạy lòng vòng mấy ngõ cứ tưởng tôi dân Thứa (thị trấn Thứa, huyện Lương Tài bên cạnh) sang Làng đồng chơi bạc: "Bác chắc gặt đậm? Nhà lão T hay oánh to nhỉ". Trò chuyện tôi mới hay, cờ bạc ở Đại Bái tựa cơm bữa, "đội hình xếp mâm" già trẻ, gái trai đủ lứa. Nhà nọ có ông chồng thua bạc, cô vợ cắp nón ra ngõ kêu vay để "tiếp tế" cho phu quân đang hồi cay cú. Chiếu nhỏ gom bét cũng vài trăm, chiếu to vơ vội được vài triệu! Tiền nhà quê góp "đan quạt mua vui" như thế, ai bảo nhỏ?

Thời cực thịnh, hơn 500 hộ dân Đại Bái ra Hà Nội mua nhà, lập nghiệp (nay số hộ này vẫn bám nghề thành công). Mối giao lưu anh em, họ hàng với quê cũ khiến cho đám trai gái hư hỏng làng Đại Bái có cớ "đi về vài hôm" ra chốn Hà Thành phồn hoa để chơi bời thỏa thích. Nghiện ngập theo chân họ về làng là thế, trong đó có cả AIDS (một trường hợp nay vẫn còn sống). Về đây tôi mới hay, dân số ''xóm liều" Thanh Nhàn có nhiều con nghiện người Đại Bái.

Rác em em quăng, nước anh anh thải !

Những thợ đồng làng Đại Bái

Khi hàng trăm hộ chuyển sang nghề nhôm sắt đáp ứng nhu cầu gia dụng và xây dựng trong làng, ngoài xã, nước trở nên quan trọng để tráng khay, rửa khung, cọ máy, làm mát... Trong tiếng máy cán réo rát, tiếng búa nện chát tai, khói bụi loang khét, người đi giữa "phố làng" Đại Bái mới cảm nhận một nỗi lo cho môi trường sống nơi đây. Cái xưởng hổ lốn (đồng, sắt) "tầm tầm" nhà ông Đ mà "tắm" mỗi ngày ba chục khối nước (phải là nước... tạm sạch!) rồi "hồn nhiên" tống tháo ra ven đường cho nó "tự chảy về chỗ trũng" thì quả nhiên mấy ao nước trong làng cầm cự "tự chứa, tự ngấm, tự bốc hơi" nay cứ đen sì, cá tôm "mình sắt ruột đồng" cũng không sống nổi.

Dân Đại Bái từ lâu không dùng nước giếng khơi không phải họ lắm tiền xài giếng khoan cho oách. Giếng nước truyền thống dân ta thường dùng nay ở Đại Bái lấp gần hết bởi cái gầu nước múc lên đục ngầu có váng khè khè kia ai dám xài! Nay, nước giếng khoan hút từ lòng đất sâu cũng đục "nhờ nhờ" lại "có nhiều loại a-xít" (theo chị Sen, nhân viên Trạm y tế xã) rất có thể là một trong những nguyên nhân tăng cao con số phụ nữ bị sảy thai hàng năm (16 trường hợp năm 2002). Số cụ cao niên đến tuổi 90 là chuyện "xưa nay hiếm" ở làng Đại Bái. Chị Sen còn cho tôi hay, bệnh đau mắt hột, mắt đỏ, ghẻ lở "quen thuộc với dân ở đây lắm". Ngoài ra, bệnh nghề nghiệp như ho hen, lao phổi do hít phải khí đồng, khói thiếc đã khiến bao người Đại Bái chết trẻ...

Tai mắt tôi muốn ù đi, không phân biệt rõ tiếng chuông đồng hay tiếng thép va từ xưởng nào dọc suốt đường làng bụi mù đầy rác ấy. Đầu óc còn mải xót trong tiếng chuông đồng Đại Bái, chân tôi quàng phải quai gánh của chị hàng rau giữa chợ làng. Chợ cứ ngả ra la liệt dọc "phố làng" những chuối, mướp, lẫn áo quần trẻ con, giấy rác cũng la liệt phứa ra. Mấy cô hàng bánh đậu còn thản nhiên bày hàng rồi ghếch chân tán gẫu với nhau ngay trên khoảnh bệ bia tôn vinh làng đồng gần chợ. Nhịp sống "cơm hàng cháo chợ" phục vụ thợ thuyền vốn cùng điệu với rác thải, vậy mà ở Đại Bái không có đội vệ sinh đường sá, khiến rác rưởi cứ tràn ven ao, rãnh cống, đốc nhà cho ruồi nhặng nhan nhản vo ve vui với đám trẻ con nô đùa thân thiết lắm!!!

Tiền vào túi ông ! Nghề nào cho ta ?

Phết nụ cười hoa hút mắt kẻ lữ khách tò mò là tôi - thằng nhà báo quèn diễn vai thăm mua đồ đồng, cô gái (làng này sao nhiều con gái xinh thế!) dáng chừng thạo duyên chào mời cứ dịu dàng: "Hiệu nhà em đủ món vừa rẻ, vừa bền lại đẹp hoa văn, bộ đỉnh này 8 trăm, lư kia 4 trăm... anh không nắm giá, vào hiệu khác dính lừa mấy triệu..!" Sau hồi nấn ná "ngắm người, ngắm đồ", tôi tha thẩn sang hiệu gần bên. Tay thợ tên Hiền đang mải miết những nét chạm tuyệt đẹp trên bộ lư hương cũng ngừng tay đón khách. Biết ông "khách sộp" là nhà báo, Hiền không giấu diếm: "Tôi muốn bỏ nghề, hàng ế lắm, có dễ mấy ngày chẳng ma nào hỏi mua. Bộ đỉnh này tiền triệu nhưng công xá, vật liệu đã choán vốn rồi, không bán tháo được. Làm thợ mỹ nghệ như tôi phải học cả chục năm có dư, mà nay làng chỉ còn dăm sáu người như thế. Tay nghề cứng trụ lại còn khó, dạng mèng mèng chỉ còn nước kiếm nghề khác. Làm ruộng cũng hết lối vì đất có được là bao. Tôi đang hướng con trai đi học lái xe hòng có cơ "biến" mà sống. Dân buôn đồ đồng thì lại khác, họ có tài kiếm được mối khắp nơi, bán hàng lại "vô giá" nên thu lời kếch sù. Tôi chỉ mong Nhà nước sớm hoàn thành dự án Làng đồng như họ nói năm nào để đầu ra có nơi tiêu ổn định. Tôi nghe nói ở miền Nam, bộ đỉnh này người ta "chém" mấy triệu, cái chiêng kia 5 trăm ngàn mà thành 3 triệu đấy, tôi e làng nghề bị mất, có cách nào giữ nó không anh nhà báo?". Tôi...

Chiều đến, tôi lang thang dạt vào HTX Hợp Thành (nhà nghệ nhân Uyển) toạ lạc giữa làng. Ông Uyển cho sản xuất khoá xe máy kiểu "Việt-Tiệp" là chủ yếu. Trong tay ông có sáu bảy chục công nhân. Ông cho tôi biết, xưởng nhà ông luôn sẵn sàng đáp ứng bất kỳ loại mặt hàng đồ đồng, thép nào nếu có thể... bắt chước! Cỡ "đàn em sắt thép" như ông Uyển ở Đại Bái đang tăng lên ở làng Đại Bái chứ không phải số tay thợ nghề đồng truyền thống tăng lên.

Không có lãnh đạo nào của tỉnh Bắc Ninh, tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống nhất miền Bắc nước ta, trả lời cho câu hỏi của anh Hiền và nhiều người Đại Bái khác.

Ngàn năm sau, có nhiều người khóc Cụ Tổ Làng Đồng...

Bắc Ninh, những ngày cuối tháng Ba

  • T.D
Gửi tin qua E-mail In tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC:
" Khổ ai... khi có chút giọng ''sâu-oèo'' (30/04/2003)
" Bi hài ''xóm bói" Giảng Võ (23/04/2003)
" Thuỷ thủ tàu dầu (13/04/2003)
" Dưới những gầm cầu Hà Nội... (18/04/2003)
" Viện trưởng Viện KSND huyện Hải Hà tự phê chuẩn bắt giam con trai mình (02/04/2003)
" Thêm một lần bên bờ vực lở (28/03/2003)
" Nghề lặn biển (28/03/2003)
" ''Chợ sung sướng''... bán mua ''thần dược'' (20/03/2003)
" Có hay không những con Ma cà rồng ở miền núi? (14/03/2003)
" Siêu lừa kiểu DONA (03/11/2003)
" Sự hối hận muộn màng của một cô gái điếm (10/03/2003)
" Vợ, bồ và điện thoại di động... (06/03/2003)
" ''Mánh nghề'' của taxi ''dù'' Hà Nội (03/11/2003)
" Long đong những kiếp yêu buồn (03/03/2003)
Xem tiep Tro ve dau trang