(VietNamNet) - Giữa nhịp sống cuộn chảy mỗi ngày, bên dưới ''dải lụa'' Long Biên vắt qua sông Hồng là những mảng màu sáng tối của một xã hội thu nhỏ mà không phải ai hàng ngày bước chân qua cầu cũng biết đến...
Đầu thế kỷ XX, người Pháp xây dựng cầu Paul Doumer (nay gọi là cầu Long Biên) để nối nhịp hai bờ sông Hồng. Long Biên là một trong 4 cây cầu lớn nhất thế giới vào lúc đó. Trải qua 100 năm, cầu Long Biên vẫn oằn mình chịu đựng hàng chục chuyến tàu mỗi ngày cùng hàng nghìn lượt xe đạp vượt sông Hồng. Người Pháp xây dựng cầu Paul Doumer mà không hề biết rằng 100 năm sau dưới gầm cầu này lại có một xã hội thu nhỏ, là cuộc sống lo toan, là sự sinh nhai nhọc nhằn bên cạnh các ''khoảng tối'' của một xã hội...
''Còi tàu ru tôi lớn, sông Hồng nuôi tôi khôn!''
Đến bây giờ nhiều lúc ngồi ngẫm lại, Hoàng Văn N. vẫn không thể hiểu nổi tại sao mình lại gắn bó được với một nơi vừa ồn ào vừa lặng lẽ như gầm cầu Long Biên này. Bố anh là dân Hà Nội gốc, mẹ là người Bắc Ninh đến Hà Nội buôn bán và họ tác duyên nhau. N. cất tiếng khóc chào đời đã nghe tiếng hú của còi tàu, tiếng nước sông Hồng chảy ngày đêm. Vô tình lang thang khu vực gầm cầu Long Biên và như có một chút duyên nào đấy cho tôi được gặp N., một người đàn ông mà từ khi sinh ra đã gắn bó với ''gầm trời Long Biên'' cho đến tận bây giờ, khi anh đã gần 40 tuổi. Mấy ngày lăn lộn tại khu vực Long Biên như một ''gã cô hồn'' vô công rồi nghề để thực tế cho bài viết này tôi như ''lảo đảo'' trong những âm thanh của tiếng bánh tàu rít lên đường ray trên đầu, tiếng ầm ầm của một xã hội thu nhỏ... N. nói với tôi, anh đã gần 40 năm nghe tiếng còi tàu...
Hoàng Văn N. đưa tôi vào câu chuyện dài của gia đình mình, anh bảo đó cũng là câu chuyện của nhiều gia đình sống quanh khu vực gầm cầu Long Biên này... Trước đây, khi bố mẹ N. mới lấy nhau, họ cũng có một nơi ''an cư'' đẹp đẽ và yên bình trong một ngõ nhỏ phố Phùng Hưng (Hoàn Kiếm - Hà Nội). Thế rồi khi N. chưa kịp ra đời thì bố mẹ anh đã phải bán nhà để trả nợ cho những lần cờ bạc của bố. Gia đình lao đao, rạn nứt. Lúc này mẹ anh đang mang thai anh nhưng cũng đành nhắm mắt cùng chồng ra gầm cầu Long Biên cất tạm căn lều lấy chỗ sinh nhai. Ba tháng sau khi ''nhảy dù'' ra xóm bờ sông Hồng, mẹ anh sinh ra anh trong mùa mưa lũ, nước sông Hồng đục ngầu cuồn cuộn lên từng ngóc ngách xóm bờ sông. Bà đỡ sắn quần đến đỡ đẻ cho mẹ anh thở dài: ''Số thằng bé này có lẽ lại phải gắn với con nước sông Hồng đây!''. Ngừng kể, N. bắn hai ''bi'' thuốc lào để ''tăng thêm sĩ diện'' và trầm ngâm, vẻ trầm ngâm thường thấy ở những con người trót mang số phận hẩm hiu, bàng bạc. N. nói: ''Lời bà mụ thế mà linh, quanh đi quẩn lại cũng đã nửa đời người tôi bám chặt cái gầm cầu này rồi đấy, chẳng biết mai đây sẽ thế nào...?''.
Lời của bà mụ như một tiền định gắn chặt cuộc đời N. với gầm cầu Long Biên, với những mùa nước vơi đầy sông Hồng. Sau khi ''nhảy dù'' ra gầm cầu dựng tạm căn nhà, mấy năm sau bố mẹ N. gom góp tiền mua được mảnh đất bên cạnh. Dần dần, bố mẹ N. cũng làm được căn nhà tạm bợ. N. lớn lên cùng với bọn trẻ xóm bờ sông. Hồi ấy, mới hơn 10 tuổi mà N. đã bơi lặn như một con rái cá bên bờ sông Hồng. Khi bố mẹ già yếu mất đi, N. bắt đầu ra chợ Long Biên lần hồi kiếm sống bằng đủ thứ nghề. Rồi lấy vợ, rồi sinh con, rồi bon chen, tất tả kiếm sống như những người công dân nghèo nàn của xóm bờ sông này.
N. kể đã không biết bao lần vợ chồng anh định ''giã từ'' xóm gầm cầu nhưng đều không thành. Không thành không phải vợ chồng N. vấn vương cái chốn ''tàu chạy trên đầu'' này, mà có cái gì đó trắc trở, vận hạn cứ bám riêt. Lần thứ nhất cách đây đã 8 năm, tằn tiện mãi được một ít tiền, vay thêm người thân thêm một ít nữa định mua mảnh đất ở ngoại thành, dựng tạm căn nhà để mưu sinh thế mà nước lũ sông Hồng ''cướp'' trắng mất. N. đau xót nhớ lại, lần ấy nước sông Hồng lên cao, chỉ một chút chủ quan, đang đêm nước tràn vào nhà. Cả hai vợ chồng sau một ngày lao động mệt nhọc lăn ra ngủ như chết. Khi nước tràn vào nhà, thấm vào chiếu thì vợ anh mới phát hiện ra. Vợ chồng con cái kéo được nhau lên sân thượng thì mới nhớ đến bọc tiền để trong chiếc tủ đứng ọp ẹp. Lúc này nước đã lên đến gần nóc nhà. Tiếc tiền, N. liều mình lặn một hơi xuống tìm nhưng do nước chảy quá mạnh, cửa tủ vỡ tung, bọc tiền bị dòng nước cuốn đi từ lúc nào. Sau lần ''đại hoạ'' này vợ anh đã tiếc tiền ốm mất một tuần, sau khi khoẻ dậy lại cùng chồng lăn lưng ra làm trả nợ và tiếp tục... tằn tiện để nuôi hy vọng ''di cư'' tiếp theo. Lần thứ hai do vợ chồng anh bị lừa. Góp mãi gần chục năm trời được hai chục triệu, nghe lời người quen cho vay nặng lãi để tiền ''đẻ'' nhanh. Được mấy tháng đầu họ trả sòng phẳng, đến tháng thứ 4 không thấy cả tiền của mình lẫn vị ''ân nhân'' kia đâu...
Vợ chồng anh ở lại xóm gầm cầu từ đó đến bây giờ. Vợ bán hàng vặt vãnh trong chợ Long Biên, chồng sắm chiếc xe ôm đón khách ngay tại cổng chợ. Khi tôi đề nghị N. cho chụp ảnh anh đang đón khách tại cổng chợ Long Biên, N. từ chối ngay. N. nói không thích chụp ảnh, cả đời anh lần chụp duy nhất là làm chứng minh thư... Tôi cứ day dứt mãi về câu nói dang dở ''chẳng biết mai đây sẽ thế nào... ?'' của N. Có lẽ cả tôi, cả N., cả người vợ tần tảo cùng hai đứa con nheo nhóc của anh cũng chẳng biết ''hậu vận'' của gia đình anh sẽ như thế nào khi mà cái nghề xe ôm mệt mỏi và ''kiếp'' buôn thúng bán mẹt của vợ N. hiện nay không lấy gì làm đảm bảo cho sự ''lạc nghiệp'' lâu dài ở mom sông Hồng và dưới chân cầu Long Biên lịch sử này.
Cùng với gia đình Hoàng Văn N. thì xóm gầm cầu còn nhiều những gia đình lâu nay đang sống trong cảnh ''phập phồng'' vì nhiều âu lo trong cuộc sống sinh nhai. Nỗi lo nơm nớp về con nước sông Hồng ''vào thăm'' bất cứ lúc nào, nỗi lo về sự ''an cư'' lâu dài vì nhiều hộ ở đây đang ''cắm dùi'' trên phần đất sát mép sông, một cơn lở đất cũng nhấn chìm và làm tiêu tan tất cả cơ nghiệp cũng như khát vọng về một cuộc sống yên bình của họ. Thậm chí, Hoàng Văn N. còn bông đùa với tôi, có những dân xóm gầm cầu này còn có cả nỗi lo ''con rồng già'' Long Biên... đổ sập xuống đầu bất cứ lúc nào... nó muốn! Rồi chuyện có những năm đang đêm nước sông Hồng lên đột ngột, có nhà ngủ say khi nước lên đến mép giường, thấm vào chiếu mới biết, vợ chồng con cái hò nhau lên sân thượng ''trốn lũ'' mà không đem theo kịp một thứ gì.
Ngủ trên nước, ăn dưới cầu
Trên dải đất hình chữ S này, ở đâu cũng vậy, cứ có sông là có xóm thuyền mà người ta hay gọi là xóm... lênh đênh. Hàng ngày, trên cây cầu Chương Dương đồ sộ vắt qua sông Hồng, phía dưới những nhịp cầu, dưới những dòng xe cộ ngày đêm ngược xuôi là một xóm thuyền lặng lẽ bên một Hà Nội hào hoa. Người ta cũng gọi xóm thuyền này là xóm gầm cầu, xóm gầm cầu lênh đênh...
Ông quê ở Khoái Châu (Hưng Yên), dân xóm thuyền này quen gọi ông là Tới ''râu'' vì bộ râu quai nón ấn tượng. Tới ''râu'' là một trong những cư dân đầu tiên của ''xóm gầm cầu lênh đênh'' này. Hôm tôi lặn lội men theo bờ sông Hồng thì gặp Tới ''râu''. Ông cởi trần trùng trục, trên người chỉ có mỗi chiếc quần đùi bộ đội đã sờn rách. Cánh tay chắc nịch khuân từng buồng chuối to lên bờ cho vợ và đứa con gái bán. Xong việc, ông rít một hơi thuốc lào, uống một ngụm chè xanh rồi nhảy ùm xuống sông tắm rửa.
Trước đây Tới ''râu'' là dân buôn bán theo thuyền. Hàng chủ yếu là nông sản và rau quả. Có đợt cao nhất vợ chồng ông có đến ba thuyền chở hàng lên bến Chương Dương bán. Cuộc sống tiểu thương trên sông nước của vợ chồng ông đang hưng thịnh thì vận rủi ập đến. Một lần, và cũng là lần đầu tiên ông quyết định ''làm ăn to'' thì gặp phải ''sóng gió'' đánh cho đến khuynh gia. Đó là chuyến lấy hàng gốm Bát Tràng cách đây gần chục năm. Bao nhiêu vốn liếng ông đổ cả vào đó cùng những hy vọng lớn trong chuyện lời lãi. Mấy thuyền gốm chuẩn bị xuất phát từ Bát Tràng thì có tin nước lũ. Ngày giờ giao hàng đã định, chờ đến khi nước rút, lũ đi thì khách cũng... đi luôn. Nếu đi thì nguy hiểm sẽ nhiều hơn yên lành. Nhìn những con thuyền chứa đầy gốm, đầy vốn liếng trong đó mà Tới ''râu'' đau. Thế rồi ông cũng quyết định đi, một quyết định mà đến bây giờ ông vẫn còn thấy phảng phất nỗi buồn, nỗi ân hận... Ba chiếc thuyền thì có đến hai chiếc bị chìm do chở nặng. Bao nhiều hy vọng, mồ hôi, công sức, tiền của cuốn theo dòng lũ, may mắn nhất là không ai việc gì.
Sau chuyến hàng ''định mệnh'' đó, vợ chồng ông phải bán nhà trang trải nợ nần và sắm con thuyền lênh đênh bán hoa quả, nông sản trên sông Hồng rồi dừng lại ở bến Chương Dương đến bây giờ. Đứa con gái sau khi lấy chồng, chưa có tiền ''lên bờ'' cũng đành đóng thêm con thuyền nữa, nhập vào xóm ''lênh đênh'' với bố mẹ. Ngày ngày hai vợ chồng lên bờ buôn bán vặt, tối lại về ''ngủ trên nước, ăn dưới cầu'' như bao cư dân khác ở đây.
Cùng với gia đình Tới ''râu'' là hàng chục hộ khác ở xóm gầm cầu Thăng Long đang ngày đêm phải đối mặt với vô vàn những khó khăn, trắc trở trong cuộc sống sinh nhai nơi gầm cầu Chương Dương. Gia đình anh Hùng, chị Loan từ Hà Tây lên, gia đình chị Huệ, anh Tung từ Bắc Ninh đến... Mỗi gia đình đều có những lý do riêng khi đến nhập ''hộ khẩu'' cái xóm gầm cầu này. Hầu hết cư dân ở đây là dân ''ngụ cư'', lang thang và đang cố hoà mình trong nhịp sống ồn ào ngay trên đầu họ. Bố mẹ đã thế, cuộc sống là vậy nên những đứa trẻ suốt ngày lem luốc, cáu bẩn, không học hành, không giấy khai sinh, không khát vọng đang cùng bố mẹ ''chênh vênh'' trên sông, trên miền đất hứa Hà thành nhiều lo toan... Nhưng nếu về quê, họ về đâu, đi đâu khi ngay mảnh đất ở quê cũng không còn? Những đứa trẻ tội nghiệp, họ là người hiểu điều đó nhưng cái trước mắt, cái quan trọng nhất đối với mỗi ''gia đình thuyền'' ở đây là miếng cơm, là manh áo cho cuộc sinh nhai nhọc nhằn. Thời gian nào cho những lo toan cho con trẻ? Biết rồi cũng đành để đấy mà tiếc nuối và ngậm ngùi mà thôi, Tới ''râu'' trầm lặng nói với tôi trong bóng chiều tà đang giăng trên xóm thuyền...
|