Chữa bệnh 'máu trắng' trẻ em
08:50' 04/10/2003 (GMT+7)

Bệnh bạch cầu cấp hay lơxêmi cấp (nhân dân gọi nôm na là bệnh máu trắng) là một bệnh tǎng sinh có tính chất ác tính. Các bạch cầu non tiên phát ở tủy xương, lấn át sự tạo máu bình thường của tủy và thâm nhiễm vào nhiều bộ phận trong cơ thể. Với các bệnh nhi, đây không phải là căn bệnh vô phương cứu chữa, nhưng rất tốn công.

Bệnh bạch cầu cấp là bệnh ác tính phổ biến nhất trong các bệnh ung thư ở trẻ em. Tại Khoa huyết học lâm sàng, Bệnh viện nhi trung ương, bệnh bạch cầu cấp chiếm 45% các bệnh ung thư vào bệnh viện và hàng nǎm bệnh viện tiếp nhận từ 120 đến 150 bệnh nhân mới.

Đây cũng là một bệnh hiểm nghèo, trước có thể gây tử vong chỉ trong 1 nǎm. Nhờ những tiến bộ vượt bậc của y học về hiểu biết bệnh, phân loại bệnh, thuốc điều trị và ứng dụng các kỹ thuật di truyền, sinh học phân tử, nên hiện nay trên 60% trẻ bị bạch cầu được cứu sống ở các nước tiên tiến và trên 90% trẻ sống thêm được từ 3-5 nǎm.

Ở Việt Nam những nǎm qua đã có nhiều tiến bộ về chẩn đoán, song điều trị còn gặp nhiều khó khǎn, kết quả điều trị còn hạn chế, chỉ 8-10% số trẻ bị bệnh vào BV Nhi Trung ương có điều kiện theo đuổi điều trị một cách đầy đủ.

Triệu chứng

Bệnh bạch cầu cấp xảy ra ở mọi lứa tuổi, song phổ biến ở trẻ dưới 5 tuổi, trẻ trai mắc bệnh nhiều hơn trẻ gái. Bệnh thường bắt đầu bằng triệu chứng sốt và da xanh do thiếu máu. Đặc điểm của triệu chứng sốt là sốt thất thường, sốt cao, lúc đầu dễ lầm lẫn là sốt do một bệnh nhiễm trùng, điều trị bằng kháng sinh không có hiệu quả, có thể sốt từng đợt, tái diễn.

Kèm theo sốt là da xanh dần, trẻ mệt mỏi, thở nhanh, tim đập nhanh, do thiếu máu. Thiếu máu tǎng dần, lúc đầu thiếu máu nhẹ, sau thiếu máu nặng, đòi hỏi phải truyền máu nhiều lần.

Đồng thời với sốt, thiếu máu thường có biểu hiện xuất huyết, trên da thấy có nhiều chấm xuất huyết màu đỏ, có những mảng bầm tím, dễ bị chảy máu cam, rỉ máu ở lợi chân rǎng. Trường hợp nặng có thể bị chảy máu đường tiêu hóa, nhất là chảy máu ở nội sọ và chảy máu phổi gây tử vong.

Ngoài các biểu hiện trên còn hay gặp nổi hạch to ở hai bên cổ, nách, bẹn; lách to và đau xương khớp. Nhiều trường hợp đau xương dễ lầm lẫn với viêm đa khớp. Nếu không được điều trị, bệnh tiến triển nặng dần, sốt nhiều hơn, thiếu máu nặng, xuất huyết nhiều, dễ có nguy cơ tử vong do chảy máu nặng và nhiễm khuẩn.

Chẩn đoán

Để chẩn đoán xác định bệnh phải dựa vào xét nghiệm máu ngoại biên và máu tủy. Máu ngoại biên có biểu hiện giảm hồng cầu và huyết cầu tố, bạch cầu thường tǎng cao, có nhiều bạch cầu non, giảm bạch cầu trung tính và tiểu cầu.

Chọc dò tủy xương để xét nghiệm máu tủy, thấy có biểu hiện tủy tǎng sinh, chủ yếu là tǎng sinh nhiều bạch cầu non, lấn át các dòng tế bào bình thường ở tủy, như giảm dòng hồng cầu, giảm dòng bạch cầu tủy bình thường và giảm dòng mẫu tiểu cầu ở tủy. Xét nghiệm máu tủy là xét nghiệm có ý nghĩa quyết định chẩn đoán. Do đó chọc dò tủy xương là xét nghiệm bắt buộc để chẩn đoán.

Cũng cần nói rõ thủ thuật chọc dò tủy xương không gây tai biến nếu đảm bảo kỹ thuật. Máu tủy còn được sử dụng để làm một số xét nghiệm về miễn dịch, di truyền, rất cần cho chẩn đoán, phân loại bệnh để giúp hướng điều trị chính xác.

Điều trị

Bệnh bạch cầu cấp được phân loại thành 2 dòng, bạch cầu cấp dòng lympho và bạch cầu cấp dòng tủy. Ở trẻ em, 70% trường hợp là bạch cầu cấp dòng lympho, còn 30% là bạch cầu cấp dòng tủy. Nhìn chung bạch cầu cấp lympho thì tiên lượng điều trị thuận lợi hơn bạch cầu cấp dòng tủy.

Việc điều trị bệnh bạch cầu cấp khá phức tạp và khó khǎn vì cần nhiều loại thuốc, các thuốc đều có nhiều độc tính cũng như tác dụng phụ; thời gian điều trị dài từ 2-3 nǎm, phải điều trị liên tục, phải được theo dõi tại một cơ sở chuyên khoa

Ngoài thuốc hóa chất, bệnh nhi còn cần được truyền máu, chống nhiễm trùng bội phụ, một số ít còn cần ghép tủy xương, do đó chi phí điều trị khá cao. Vì thế, cho đến nay chỉ có khoảng 8-10% bệnh nhân có điều kiện chấp nhận điều trị đầy đủ. Điều trị bệnh bạch cầu cấp đầy đủ, liên tục cần sự kết hợp chặt chẽ giữa bệnh viện và gia đình, và việc tổ chức chǎm sóc tốt.

Phương pháp điều trị bao gồm: đa hóa trị liệu, điều trị hỗ trợ bao gồm cả truyền các chế phẩm máu và ghép tủy xương nếu cần, và điều trị chống nhiễm khuẩn. Cũng phải nói ngay không phải tất cả bệnh nhân bạch cầu cấp đều phải ghép tủy xương, chỉ một ít trường hợp cần ghép tủy.

Trong suốt thời gian điều trị, bệnh nhi được theo dõi tại một bệnh viện để đánh giá tiến triển bệnh, tác dụng phụ, độc tính do điều trị và biến chứng nhiễm trùng cơ hội, để điều chỉnh chế độ điều trị và xử trí kịp thời. Bệnh bạch cầu cấp là một bệnh ác tính, tiên lượng nặng, dè dặt.

Chi phí cho điều trị bệnh bạch cầu cấp khá tốn kém, bệnh nhi cần được sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế và các tổ chức nhân đạo.

GS.TS. Nguyễn Công Khanh, Sức khoẻ & Đời sống

Gửi tin qua E-mail In tin Gửi phản hồi
CÁC TIN KHÁC:
Hạn chế triệu chứng của bệnh suy tĩnh mạch (03/10/2003)
Trị lang ben (02/10/2003)
Nguời bệnh nhồi máu cơ tim nên ăn uống gì? (02/10/2003)
Để cá làm lợi cho sức khoẻ (02/10/2003)
Nuôi dưỡng người bệnh ung thư (01/10/2003)
Xử trí khi thân nhiệt trẻ sơ sinh thay đổi (01/10/2003)
Phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt (01/10/2003)
Bệnh hen có nguy hiểm cho thai nghén? (30/09/2003)
9 dấu hiệu báo động bệnh ung thư (30/09/2003)
9 dấu hiệu báo động bệnh ung thư (29/09/2003)
Sốt xuất huyết và biến chứng chảy máu trong nhãn cầu (29/09/2003)
Đau mỏm cụt sau cắt bỏ chi (29/09/2003)
Khi nào uống vitamin? (26/09/2003)
Chống hạ can xi huyết ở trẻ nhỏ (26/09/2003)
Xem tiep Tro ve dau trang