(VietNamNet) - "Cần thay đổi quan niệm của xã hội, và nhất là của một nửa phần gần gũi với nữ giới, về người phụ nữ trí thức, phụ nữ làm khoa học…”. Đề nghị này của PSG TS Lê Văn Phi được đông đảo nữ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở đại học quan tâm nhất tại hội nghị khoa học về nữ cán bộ công chức, do ĐH Kinh tế TP.HCM tổ chức vào sáng 9/3.
|
GS-TS Võ Thanh Thu: "Muốn nghiên cứu khoa học tốt, bản thân người nghiên cứu phải có tâm huyết và quyết tâm lớn. Vì nghiên cứu rất mất thời gian, trăn trở, ảnh hưởng đến sức khoẻ...". |
Theo GS TS Dương Thị Bình Minh, thành tích nghiên cứu khoa học của nữ giảng viên còn rất khiêm tốn. Trong tổng số 23 đề tài cấp Bộ năm 2002, chỉ có bốn đề tài do các nữ giảng viên chủ trì, chiếm tỷ lệ 17,39% so với nam giới. Tương tự, năm 2003 trong tổng số 15 đề tài cấp Bộ, chỉ có một chủ nhiệm đề tài là nữ giảng viên (tỷ lệ 6,7%).
Ở đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, tỷ lệ này có khả quan hơn. Năm 2002 có 29,41% chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở là nữ, đến năm 2003 tăng lên 41%. Tuy vậy, tỷ lệ giảng viên nữ tham gia biên soạn giáo trình, tài liệu học tập so với đồng nghiệp nam giới cũng vẫn ở mức thấp.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự khác biệt này? Những rào cản, ràng buộc, những điều kiện nào làm chùn bước các cán bộ giảng viên nữ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học? Theo nhiều đại biểu, khác với nam giới, các cán bộ nữ vừa phải làm tốt công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường, vừa còn phải lo tròn bổn phận làm vợ, làm mẹ, lo toan cho sự toàn vẹn của gia đình. Do vậy, quỹ thời gian của các nữ cán bộ dành cho nghiên cứu khoa học quá hạn hẹp.
Theo PGS TS Lê Văn Phi, hiện đã có rất nhiều chủ trương, chính sách đảm bảo quyền bình đẳng về giới ở tất cả mọi lĩnh vực. Vần đề là làm thế nào để đưa chủ trương, chính sách ấy đi vào thực tế, ứng dụng cho từng trường hợp cụ thể. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai phía, lãnh đạo và những người thực hiện, giữa phái nam và ngay cả ở chính phái nữ.
Nguyên Sa - Trương Hiệu |