(VietNamNet) - Sáng 16/12 tại Hà Nội, Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phối hợp tổ chức Hội thảo quốc gia về Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT).
|
| Hệ thống quan trắc quốc tế (IMS). |
Cuộc hội thảo này, được sự tài trợ của Tổ chức CTBT (CTBTO), có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi Việt Nam nằm trong danh sách 44 nước có tên tại Phụ lục 2 của Hiệp ước cần phải phê chuẩn để Hiệp ước có hiệu lực. Cho tới nay, 10 nước ASEAN đã ký CTBT trong đó Campuchia, CHDCND Lào, Philippines và Singapore đã phê chuẩn. Hội thảo tập trung vào ba vấn đề cốt lõi: khía cạnh pháp lý và kỹ thuật của việc thực thi Hiệp ước cũng như triển vọng phê chuẩn Hiệp ước của Việt Nam.
3 vấn đề chính
Về khía cạnh pháp lý, ngoài việc tuân thủ những nghĩa vụ cơ bản quy định trong Điều I của Hiệp ước chẳng hạn như: ''... không tiến hành bất kỳ vụ nổ để thử vũ khí hạt nhân hoặc bất kỳ một vụ nổ hạt nhân nào khác, và ngăn cấm mọi vụ nổ hạt nhân như vậy ở bất kỳ nơi nào thuộc quyền tài phán hoặc kiểm soát của quốc gia thành viên'', Việt Nam, với tư cách là một quốc gia ký Hiệp ước, được trông đợi sẽ thực hiện các nghĩa vụ trên thông qua việc nội luật hoá các quy định của Hiệp ước như quy định ở Điều 3. Nếu làm như vậy, Việt Nam sẽ góp phần xây dựng CTBT thành một biện pháp hữu hiệu về giải trừ và không phổ biến vũ khí hạt nhân, từ đó tạo ra cơ hội để củng cố hoà bình và an ninh ở phạm vi quốc tế, khu vực và quốc gia.
*Vụ thử bom nguyên tử đầu tiên được tiến hành ở Alamogordo vào tháng 7/1945 và đã mở ra kỷ nguyên của vũ khí hạt nhân. *Từ năm 1995 tới 1998 đã có hơn 2.000 vụ thử đã được thực hiện. |
Về khía cạnh kỹ thuật, với sự ủng hộ mạnh mẽ, cả về chính trị lẫn tài chính của các quốc gia, Uỷ ban Trù bị CTBT đang từng bước thiết lập một chế độ kiểm chứng chi tiết và hiệu quả, như quy định trong Hiệp ước, nhằm kiểm chứng sự tuân thủ của các quốc gia thành viên đối với CTBT. Chế độ kiểm chứng bao gồm Hệ thống Quan trắc quốc tế (IMS), Trao đổi và làm sáng tỏ (C&C), Thanh sát tại chỗ (OSI) và Các biện pháp xây dựng lòng tin (CBM). IMS là một hệ thống theo dõi trên phạm vi toàn cầu nhằm quan trắc các vụ thử hạt nhân trong mọi môi trường, kể cả trong lòng đất, dưới nước và trong không gian, tại bất kỳ thời điểm nào. Không hề cường điệu khi nói rằng lần đầu tiên trong lịch sử có một hệ thống quan trắc toàn cầu với phạm vi và cường độ như vậy.
IMS gồm 337 cơ sở, trong đó có 321 trạm, 16 phòng thí nghiệm và được hỗ trợ bởi Trung tâm Dữ liệu quốc tế (IDC) ở Áo. Để thực hiện chức năng quan trắc, IMS sử dụng 4 công nghệ đo địa chấn, sóng thuỷ âm, hạ âm và phóng xạ. Trong số 321 trạm, có 293 trạm đã hoàn tất việc điều tra cơ sở. 166 trạm thuộc các dòng công nghệ khác nhau đã được lắp đặt và về cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Uỷ ban. Có thêm 75 trạm đang được xây dựng hoặc đang trong giai đoạn đàm phán. Chi phí xây dựng IMS là trên 200 triệu USD và khoảng 30 triệu USD mỗi năm cho vận hành và bảo dưỡng.
Việt Nam sẽ không phải quản lý 337 cơ sở IMS, song CTBT trông đợi các quốc gia thành viên cung cấp những biện pháp kỹ thuật quốc gia (NTM) để tăng cường cho IMS. NTM có thể là bất kỳ trạm nào có thể quan trắc dạng sóng và phóng xạ. Theo ông Y.Kagawa, Thư ký chấp hành thuộc Hệ thống Vận hành quốc gia về CTBT của Nhật Bản, nếu như Việt Nam có thể chỉ định các trạm quốc gia của mình làm NTM theo CTBT thì Việt Nam sẽ đóng góp rất nhiều vào việc tăng cường độ tin cậy của CTBT.
Về triển vọng phê chuẩn CTBT của Việt Nam, trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo điện tử VietNamNet, TS. Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, cho biết: ''Việt Nam cần chuẩn bị đầy đủ điều kiện về mặt luật pháp, cơ chế, cơ sở hạ tầng, nhân lực và tài chính trước khi phê chuẩn CTBT. Kinh nghiệm phê chuẩn các hiệp ước trước đây cho thấy nếu không chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn khi thực hiện các hiệp ước''.
Tại hội thảo, ông Ziping Gu, Giám đốc luật pháp và đối ngoại của CTBTO, đã hoan nghênh việc gần đây Việt Nam thành lập Nhóm công tác liên ngành về CTBT nhằm thúc đẩy nhanh các bước chuẩn bị nói trên để sớm đi đến phê chuẩn Hiệp ước. Ông nói: ''Chúng tôi rất mong được thông báo về kết quả cuộc thảo luận của các bạn và sẵn sàng cung cấp cho các bạn sự hỗ trợ về mặt pháp lý và kỹ thuật cần thiết''. Các đại biểu Nhật Bản cũng chia sẻ một số kinh nghiệm và vấn đề đã trải qua trong việc thực hiện các nghĩa vụ theo CTBT nhằm giúp Việt Nam thiết lập chế độ quốc gia thực hiện Hiệp ước.
Mục đích của CTBT
Từ năm 1994-1996, Hiệp ước CTBT đã được thương lượng tại Hội nghị Giải trừ Quân bị. Hiệp ước có tính bước ngoặt này đã được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 10/9/1996. Sau đó, vào ngày 24/9/1996, CTBT đã được Tổng thư ký LHQ mở ký với tư cách là Người lưu chiểu. Ngoài việc cấm các vụ nổ thử hạt nhân, CTBT còn có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn chặn mạnh mẽ việc phát triển các thế hệ vũ khí hạt nhân mới; hạn chế việc tái thiết kế và hiệu chỉnh hữu hiệu vũ khí hạt nhân; chấm dứt việc chạy đua về chất lượng giữa các nước có vũ khí hạt nhân; làm cho việc các nước không có vũ khí hạt nhân muốn chế tạo vũ khí hạt nhân càng gặp khó khăn.
| Cho tới nay, kho vũ khí hạt nhân trên thế giới vẫn còn khoảng 20.000 đầu đạn. |
Mục tiêu cuối cùng của CTBT là đóng góp vào các nỗ lực quốc tế nhằm đi đến giải trừ hạt nhân; ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân; đóng góp vào việc củng cổ hoà bình và an ninh quốc tế; cùng với NPT (Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân) tạo thành nền tảng thiết yếu cho sự nghiệp giải trừ vũ khí hạt nhân; là một bước đi có hiệu quả nhằm làm giảm vai trò của chính sách tăng cường vũ khí hạt nhân.
Để Hiệp ước có hiệu lực, 44 nước có tên tại Phụ lục 2, trong đó có Việt Nam, phải nộp văn bản phê chuẩn CTBT của mình cho Tổng thư ký LHQ. Tính đến 11/7/2003, đã có 32 trong số 44 nước trên đã nộp văn bản phê chuẩn, 9 nước chưa phê chuẩn và 3 nước chưa ký. Tính đến 11/11/2003, có 170 nước đã ký, 108 nước đã phê chuẩn và 23 nước chưa ký CTBT. Khi trở thành thành viên của CTBTO, nước tham gia có thể tiếp cận các dữ liệu phong phú của IMS và các sản phẩm của IDC. Chúng rất có giá trị đối với công tác nghiên cứu quốc tế và giảm thiểu thiên tai, cung cấp các ứng dụng khoa học và dân sự hữu ích phục vụ cho phát triển bền vững và cải thiện dân sinh.
|