,
221
4701
60 năm BCVT
60nambcvt
/cntt/60nambcvt/
498132
Lộ trình cước viễn thông Việt Nam
1
Article
2081
CNTT - Viễn thông
cntt
/cntt/
,

Lộ trình cước viễn thông Việt Nam

Cập nhật lúc 17:11, Thứ Tư, 11/08/2004 (GMT+7)
,
Bắt đầu được biết đến ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đến nay, viễn thông Việt Nam đã từng bước phát triển trên lộ trình giảm cước, đưa công nghệ ứng dụng vào cuộc sống, hội nhập với thế giới. Đây là quá trình lâu dài, sôi động và cũng là một khoảng thời gian đầy trăn trở, tâm huyết của những người làm cước.

Khách hàng được chọn lựa nhiều dịch vụ viễn thông đa dạng.

Năm 1888, chiếc máy điện thoại đầu tiên đã có mặt tại Việt Nam.100 năm sau, năm 1988, số thuê bao mới đạt 200.000 - với mật độ 0,18 máy/100 dân

Tháng 11/2003, số lượng thuê bao của VNPT vượt trên 7 triệu thuê bao, đạt tỷ lệ 8 máy/100 dân. Nhu cầu thị trường và năng lực kinh doanh vào thời điểm này đã đẩy nhanh tốc độ đua tranh của VNPT.

Để tạo nên con số này, ngành viễn thông đã tập trung nguồn lực vào xây dựng cơ sở hạ tầng với mục đích mở những xa lộ mới phát triển thông tin. Cuối năm 1995, hệ thống tổng đài và truyền dẫn trên toàn quốc đã được số hoá hoàn toàn, khiến tốc độ tăng thuê bao tăng gấp 20 lần so với năm 1991.

Theo lộ trình này, mạng ĐTDĐ đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam - mạng MobiFone vào năm 1993 và ngay sau đó, đến giữa năm 1996, mạng Vinaphone cũng đã ra đời. Internet xuất hiện tại Việt Nam vào năm 1997.

Đến nay, theo lộ trình giảm giá của mình, VNPT đã giảm cước quốc tế 9 lần và 5 lần giảm cước di động.

Hiện tại, có 3 nhà cung cấp mạng và dịch vụ cố định đường dài trong nước, quốc tế gồm: VNPT, Vietel và ETC; 5 nhà cung cấp dịch vụ di động gồm VinaPhone, MobiFone, SPT, Vietel và Hanoi Telecom; 6 nhà cung cấp kết nối Internet (IXP) gồm VNPT, FPT, Vietel, SPT, ETC, Hanoi Telecom và 13 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP).

Tuy nhiên, ngoài VNPT hiện đang cung cấp tất cả các dịch vụ, Vietel và ETC mặc dù đã có giấy phép cung cấp các dịch vụ viễn thông, Internet tương đương với VNPT nhưng vẫn chưa triển khai đầy đủ các dịch vụ đã được cấp phép. Cụ thể, về dịch vụ điện thoại di động mới chỉ có SPT đã bắt đầu triển khai và Vietel chuẩn bị tham gia thị trường; về dịch vụ điện thoại VoIP, chỉ có SPT, Vietel và Công ty Viễn thông Điện lực (ETC); về dịch vụ Internet, cũng mới chỉ có SPT, FPT, NetNam, OCI.

 2001 - Năm được mùa giảm cước viễn thông

Sở dĩ người ta gọi tên năm này như vậy vì trong năm, ngành bưu điện đã giảm tới 6 loại cước viễn thông và chỉ tăng duy nhất 1 loại cước bưu chính. Theo đó, cước điện thoại một chiều đi quốc tế sẽ giảm 15%, cước di động trả tiền sau giảm 10%...

Sự kiện có ý nghĩa nhất trong năm là giá thuê bao điện thoại cố định từ 68.000 đồng giảm xuống còn 27.000 đồng/tháng. Cước hoà mạng điện thoại di động - dịch vụ trả tiền sau đã giảm 20-25%, cước liên lạc giảm 10%. Mức giảm giá cuộc gọi đối với dịch vụ điện thoại trả tiền trước cũng được cân đối dựa trên cơ sở mức giảm của dịch vụ trả tiền sau.

Cước thuê kênh viễn thông đường dài trong nước và quốc tế giảm 25-30%, cước thuê cổng Internet trực tiếp của các ISP cũng được giảm xuống tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực.

Mức cước quy định ban đầu cho ĐTDĐ nội vùng là 3.500 đồng/phút, liên vùng là 6.000 đồng/phút; cách vùng là 8.000 đồng/phút. Đến ngày 2/10/2001, trừ cước nội vùng vẫn giữ nguyên, cước liên vùng giảm xuống còn 5000 đồng/phút, cước cách vùng còn 6.500 đồng/ phút. Ngoài ra, còn giảm cước gọi vào khoảng thời gian từ 23 giờ đêm hôm trước đến 07 giờ hôm sau.

Cước di động trả sau giảm mạnh. Cước thuê bao giảm 25%, từ 200.000 đồng xuống 150.000 đồng, cước hoà mạng giảm 5,5%, cước thông tin cũng giảm trung bình gần 10%. Cước thông tin trong những ngày nghỉ giảm tới 50%.

Nhưng có lẽ mức giảm nhiều nhất là cước Internet. Trong năm 2001, cước thuê cổng IAP, ISP từ ngày 1/7/2001 giảm gần 20% so với trước. Cấu trúc cước cũng điều chỉnh thay đổi theo phương thức khách hàng dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu (cả thuê cổng và lưu lượng sử dụng). Theo các chuyên gia của Tổng cục bưu điện, đây là cấu trúc mới so với nhiều nước trên thế giới. Cước thuê cổng cho các khu công nghiệp phần mềm cũng được giảm 30% đến 50%. Cước thuê cổng của các ISP và thuê bao trực tiếp cũng giảm gần 50%, cước thuê bao gián tiếp cũng giảm 15%.

Đặc biệt, từ tháng 10/2001, Tổng công ty Bưu chính viễn thông đã cho triển khai dịch vụ Internet trả trước. Hình thức thanh toán này so với trả sau giảm được tới 20% giá cước. Cước viễn thông quốc tế trong năm cũng giảm khoảng 15%. Việc mở thêm dịch vụ "Gọi 171" quốc tế cũng là một hình thức để giảm cước các cuộc gọi điện thoại quốc tế. Cước thuê kênh từ 1/7/2001 cũng giảm từ 28 đến 30%, thuê kênh quốc tế giảm 15%.

2003 - Năm  bùng nổ các dịch vụ viễn thông

Trong năm 2003, các doanh nghiệp ICT Việt Nam đã cho ra đời rất nhiều dịch vụ mới, điển hình là dịch vụ điện thoại di động sử dụng công nghệ CDMA, dịch vụ GPRS, mạng Internet tốc độ cao ADSL, và các điểm truy cập Internet di động (Hotspot) với dịch vụ WiFi...

Tháng 6/2003, Bộ BC-VT đã ra quyết định số 476/QĐ-BBCVT cho phép triển khai dịch vụ điện thoại Internet (Internet Telephony) - loại hình PC-to-PC trong nước và quốc tế;  loại hình PC-to-Phone chiều đi quốc tế. Đồng thời, cho phép các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet trong viễn thông (OSP) được triển khai cung cấp dịch vụ này cho công cộng kể từ ngày 01/7/2003.

Dịch vụ điện thoại trên Internet ứng dụng Internet trong viễn thông, cho phép sử dụng Internet để truyền các cuộc liên lạc điện thoại. Đây là dịch vụ điện thoại Internet cho phép người sử dụng dịch vụ viễn thông tăng thêm sự lựa chọn điện thoại giá rẻ, đồng thời, thúc đẩy phát triển ứng dụng Internet trong các hoạt động kinh tế xã hội. Internet Telephony bao gồm 4 hình thức: PC-to-PC, PC-to-Phone, Phone-to-PC và Phone-to-Phone.

Tháng 7/2003, mạng di động thứ ba sau hai mạng VinaPhone và MobiFone là S-Fone do Công ty cổ phần bưu chính viễn thông Sài Gòn (Saigon Postel) chính thức ra mắt trên thị trường Việt Nam. Công nghệ mới CDMA cho chất lượng cuộc gọi tốt hơn, tính bảo mật cao, ít hao pin, với tốc độ truyền dữ liệu nhanh. Từ thời điểm này, thị trường ĐTDĐ bắt đầu sôi động, nhộn nhịp cạnh tranh gắt gao và quyết liệt hơn.

Các đợt giảm cước ''hâm nóng'' thị trường viễn thông

Ngày 1/1/2003, cước điện thoại quốc tế dùng giao thức IP giảm 10% so với cước hiện hành, cước điện thoại quốc tế mạng điện thoại chuyển mạch công cộng giảm 15,5%, cước thuê kênh viễn thông quốc tế giảm 15% và cước dịch vụ thông tin vệ tinh bằng các trạm mặt đất cỡ nhỏ (VSAT) giảm hơn 20%.
Ngoài ra, Bộ cũng ban hành cách tính cước mới đối với cước điện thoại quốc tế: Mỗi cuộc gọi tối thiểu là 1 phút, mỗi block tính cước là 6 giây, thay vì block là 1 phút như trước đây.

 Ngày 1/4/2003, Bộ Bưu chính - Viễn thông đã ra quyết định giảm 10 loại cước viễn thông. Quan trọng nhất là quyết định về vùng tính cước của dịch vụ điện thoại di động, giới hạn lại, chia thành 2 vùng, trước đây là 3  vùng. Giá cước thuê bao dịch vụ điện thoại di động trả sau còn 120.000 đồng/tháng (trước là 150.000 đồng/tháng), giá cước gọi vùng 1 vẫn giữ nguyên 1.800 đồng/phút, vùng 2 giảm còn 2.700 đồng/phút. Mức cước này giảm khoảng 34% so với trước đây.

Đối với dịch vụ di động trả trước, cước nội vùng giảm còn 3.300 đồng/phút (giảm 200 đồng); cách vùng còn 4.200 đồng/phút (giảm 800 đồng đối với vùng 2 và 2.300 đồng đối với vùng 3). Đối với điện thọai di động thuê bao ngày, cước thuê bao ngày còn 2.700 đồng/ngày (giảm 300 đồng); cước gọi nội vùng là 2.100 đồng/phút; cách vùng còn 3.100 đồng/phút (giảm 400 đồng đối với vùng 2, giảm 1.400 đồng đối với vùng 3).

Cước điện thoại quốc tế giảm bình quân từ 30-35% đối với cả hai phương thức quay số trực tiếp (IDD) với giá cước được chia làm ba vùng và theo giao thức IP. Cước điện thoại quốc tế theo phương thức trực tiếp IDD vùng 1 là 0,9 USD/phút; vùng 2 là 1 USD/phút; vùng 3 là 1,2 USD/phút. Cước điện thoại quốc tế theo phương thức IP tới tất cả các nước là 0,75 USD/phút.

Đối với cước dịch vụ truy cập Internet qua mạng điện thoại công cộng, được quy định mức tối đa đối với cước thuê bao Internet và thuê bao hộp thư điện tử là 27.273 đồng/thuê bao/tháng. Khung cước truy cập tối đa cho dịch vụ này 180 đồng/phút và mức tối thiểu là 40 đồng/phút (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng).

Ngoài ra, một số cước viễn thông khác cũng được giảm, như dịch vụ thuê kênh viễn thông quốc tế giảm bình quân khoảng 30-35%; cước thuê kênh viễn thông liên tỉnh giảm bình quân 20-30%.

Cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ

Ngày 27/10/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 217/2003/QĐ/TTg về quản lý giá cước dịch vụ bưu chính, viễn thông. Theo đó, Chính phủ quy định nguyên tắc và căn cứ quản lý, quy định giá cước; thẩm quyền quản lý giá cước, nhiệm vụ và thẩm quyền của doanh nghiệp bưu chính, viễn thông.

Giá cước được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất sản phẩm dịch vụ, quan hệ cung cầu trên thị trường và tương quan hợp lý với mức giá cước của khu vực và thế giới. Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông được giao nhiệm vụ và thẩm quyền quản lý giá cước. Người sử dụng có quyền được thông tin đầy đủ, chính xác, được khiếu nại đối với những sai sót về giá cước, sai sót trong việc cung cấp giá cước.. và tất nhiên phải có nghĩa vụ thanh toán tiền giá cước theo hợp đồng thỏa thuận.

Rõ ràng, với quyết định số 217/2003/QĐ/TTg, Nhà nước đã tôn trọng quyền định giá cước và quyền cạnh tranh về giá cước của các doanh nghiệp bưu chính viễn thông theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp đều có thể sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bình ổn giá cước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ, cũng như các doanh nghiệp bưu chính viễn thông và Nhà nước; được tạo điều kiện để các doanh nghiệp bưu chính viễn thông phát triển mạng lưới dịch vụ tại khu vực nông thôn, vùng sâu, biên giới, hải đảo.

Và đáp ứng sự mong chờ của các doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng, ngày 6/1/2004, Bộ Bưu chính, Viễn thông  đã có công văn số 16/BBCVT-KHTC hướng dẫn triển khai Quyết định 217/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý giá cước dịch vụ bưu chính - viễn thông. Theo đó, doanh nghiệp không nắm thị phần khống chế được tự quyết định giá cước các dịch vụ viễn thông.

 Văn bản cũng quy định rõ: Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) chiếm thị phần khống chế đối với các dịch vụ điện thoại đường dài trong nước (PSTN, IP), điện thoại quốc tế (PSTN, IP), dịch vụ cho thuê kênh (quốc tế, liên tỉnh, nội tỉnh, nội hạt), các dịch vụ của mạng điện thoại di động (cả trả trước và trả sau), Internet (kết nối, truy nhập) và dịch vụ Inmarsat (cho phép cung cấp thuê bao di động vệ tinh, trên biển và di động mặt đất).

Công ty cổ phần Viễn thông Quân đội (Viettel) chiếm thị phần khống chế đối với dịch vụ điện thoại quốc tế IP và Công ty Thông tin Điện tử Hàng hải (Vishipel) chiếm thị phần khống chế đối với dịch vụ Inmarsat.

Đây được xem là một bước tiến lớn, nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh hơn, đồng thời, xóa bỏ sự e ngại của các doanh nghiệp "nhỏ" trước "đại gia" trong ngành là VNPT.

Điển hình nhất, ngay sau khi văn bản này ra đời, từ ngày 20/1/2004, mạng điện thoại di động sử dụng công nghệ CDMA đầu tiên của Việt Nam S-Fone đã đăng ký tính cước theo block 10 giây ngay từ phút đầu tiên. Theo đó, cuộc gọi không quá 10 giây sẽ được tính cước thành 1 block và khách hàng chỉ trả 300 đồng thay vì phải trả 1.800 đồng theo cách tính cước trọn phút thông thường. Theo khảo sát của các chuyên gia, cách tính cước này tiết kiệm trung bình 20% so với cách tính thông thường và tiết kiệm tối đa đến 83% đối với các cuộc gọi không quá 10 giây.

2004 -  Cuộc cách mạng của các chiến dịch giảm cước:

Tính đến ngày 21/4/2004, mạng điện thoại của Việt Nam đã đạt trên 8.029.814 máy điện thoại. Trong đó, máy điện thoại cố định chiếm 59,69%, di động VinaPhone chiếm 23,95%, máy di động MobiFone chiếm 15,09%, máy Cityphone, CDMA chiếm 1,27%. Đó là kết quả đạt được nhờ vào hai đợt giảm cước trong năm của Tổng công ty BC-VT Việt Nam.

Từ1/5, cước dịch vụ thông tin di động hai mạng Vinaphone, MobiFone, cước gọi quốc tế IDD, gọi IP quốc tế giảm đáng kể, thực sự đã đáp ứng được sự trông đợi của người tiêu dùng. Đặc biệt, sự biến đổi lớn nhất trong giới thông tin di động là việc tính cước theo block 30 giây, thay vì block 1 phút trước đây, tiết kiệm hơn cho người sử dụng.

Theo đó, cước ĐTDĐ dịch vụ trả trước chỉ còn 1.500 đồng/30 giây, cước ĐTDĐ dịch vụ trả sau còn 850 đồng/30 giây. Cước gọi quốc tế IDD vùng 1 là 0,65 USD/phút; vùng 2 là 0,7 USD/phút; và vùng 3 là 0,75 USD/phút.

So với trước đây,  cước dịch vụ điện thoại quốc tế IP trả trước giảm đáng kể, còn 0,42-0,52 USD/phút; trả sau là 0,52-0,63 USD/phút.

Đối với dịch vụ Internet, từ 1/1/2004, VNPT cũng ban hành nguyên tắc xác định cước truy nhập Internet/VNN áp dụng chung cho tất cả các điểm công cộng trên cả nước, với mức cước tối thiểu cho các phương thức truy cập gián tiếp 1260, 1268, 1269, ADSL (Mega VNN) và WiFi  là 3.000 đồng/giờ, thay cho mức cước cũ là 180 đồng/phút giá trần và 40 đồng/phút giá sàn.

 Đặc biệt, so với các đợt giảm cước trước đó, quyết định của Bộ lần này đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới, thay đổi cước kết nối giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông. Theo đó, Bộ quy định với mỗi cuộc điện thoại gọi từ mạng S-Fone vào mạng VinaPhone và MobiFone, SPT sẽ chỉ phải trả cho VNPT 765 đồng/phút thay vì mức cước 820 đồng/phút như trước đây. Ngược lại, mỗi cuộc điện thoại từ mạng VinaPhone và MobiFone gọi vào mạng S-Fone, VNPT vẫn phải trả mức cước kết nối cũ là 900 đồng/phút.

Lần đầu tiên từ khi mạng di động GSM xuất hiện, quyết định cước một vùng, thống nhất trên toàn quốc đã được áp dụng. Khách hàng chưa hết phấn khởi thì lại biết đến tin vui liên tiếp: giảm cước hòa mạng và tăng thời hạn sử dụng các thẻ trả trước.

Như thế, trong khoảng thời gian không dài và gấp rút, cước viễn thông Việt Nam đã không ngừng đổi mới, liên tục được điều chỉnh phù hợp với các doanh nghiệp cũng như mong muốn của người tiêu dùng. Hơn 8 triệu máy điện thoại trên mạng, với nhiều dịch vụ viễn thông theo kịp trình độ quốc tế là những thành quả đáng kể của ngành Bưu điện. Và điều này đã tạo được bộ mặt cũng như tầm vóc riêng của viễn thông Việt Nam, so với các nước trong khu vực và thế giới.

Trước động thái giảm cước ngày 1/8 vừa qua, anh V.T.S (Ngọc Hà, Hà Nội) phấn khởi:  "Là khách hàng của MobiFone từ năm 1999, tôi thực vui mừng khi thấy mỗi năm giá cước dịch vụ viễn thông đều có giảm. Đặc biệt, năm nay, trong khi giá cả các dịch vụ khác trong xã hội hầu hết lại ngày một tăng (điện, nước, xăng dầu, gas...) thì cước viễn thông lại giảm nữa.

Việc áp dụng tính cước theo block 30 giây đã thu hút thêm nhiều khách hàng cho dịch vụ di động. Thậm chí, có người đang dùng dịch vụ chỉ nhắn tin và nhận cuộc gọi (Vinatext và Mobiplay) cũng đã đề nghị được chuyển đổi sang sử dụng dịch vụ trả trước. Theo họ, dùng trả trước theo cách tính cước mới sẽ được lợi hơn. Vì 1 cuộc gọi dưới 30 giây của trả trước chỉ mất có hơn 1.000 đồng, trong khi một tin nhắn gửi đi đã mất 500 đồng. Cước phí thấp, đương nhiên tôi sẽ dùng dịch vụ nhiều hơn."

Ở góc độ khác, chị K.L lại tâm sự: "Tôi hay gọi rất ngắn chỉ khoảng dưới 30 giây, tôi tính với các cuộc gọi dưới 30 giây thì giảm được khoảng 46 - 47%. Đó là tin vui không chỉ đối với riêng tôi mà đối với tất cả các khách hàng sử dụng dịch vụ di động của VinaPhone và MobiFone. Vì theo cách tính đơn giản của tôi, trước đây nếu gọi 1 cuộc điện thoại dù chỉ 10 -15 giây tôi vẫn phải trả tiền cho cuộc gọi của 60 giây, nhưng với cách tính mới như hiện nay thì tôi chỉ phải trả số tiền chỉ bằng 1/2 so với trước kia. Mà thông thường các cuộc gọi sử dụng máy di động của tôi cũng rất ngắn gọn chỉ khoảng dưới 30 giây''.

Đinh Hằng

 

      

 

 

 

 

 

 

 

 

,
,